Thăng Trầm Của Chữ Nho
Qua Bài Thơ ÔNG ĐỒ
Nguyễn Mộng Khôi
Bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên xuất hiện khoảng giữa thập niên 30. Trải dài môt thời gian gần 70 năm mà vẫn được nhiều người ưa thích. Có trường đem bài thơ dạy học trò. Những học giả nổi tiếng như anh em Hoài Thanh, Hoài Chân viết:
‘’ Theo đuổi nghề văn, làm môt bài thơ như thế cũng đủ, nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với đời người.’’
Ông Ngô Văn Phú phê bình:
"Ông Đồ của Vũ Đình Liên dung dị, nhưng là môt thi phẩm không ai làm được. Kể từ bấy đến giờ và có thể nói cả sau này nữa."
Năm 1999, ở Hoa Kỳ, nhạc sĩ Vĩnh Sử phổ nhạc, do Làng Văn thực hiện trong video tape ‘’ Khi Mùa Xuân Đến’. Cô Vân Khanh hát được nhiều khán thính giả khen ngợi:
Mỗi năm hoa đào nở.
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng.
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm.
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy.
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở.
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Ông Đồ là môt nhân vật có thật ngoài đời. Ông thường ngồi ở phố Hàng Bồ, Hà nôi. Vũ Đình Liên là cháu ngọai môt cụ đồ nho; vì vậy tác giả đã cảm thông những thời kỳ huy hoàng cũng như đen tối của nhà nho. Ông tiếc cho môt nền Nho học đang suy tàn. Còn đâu cái thời ‘’ kẻ sĩ ‘’ có danh vị vua ban, có chỗ đứng hàng đầu trong dân dã.
Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt.
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên.
Nguyễn Công Trứ
Bài thơ chỉ có 20 câu ngắn ngủi với vỏn vẹn 100 tiếng mà lại bao quát được môt vấn đề quan trọng. Từ thuở chữ Nho thành hình ở Trung Hoa. Sau đó du nhập vào Việt Nam, rồi thời kỳ hưng thịnh hàng chục thế kỷ, tiếp theo là suy tàn và đang trên đà lịm tắt. Bài thơ đã đi trọn môt vòng sinh mệnh qua 4 thời kỳ: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt.
1-Thời kỳ thành hình và du nhập (Sinh):
Chữ Nho có mặt thời Hoàng Đế ở Trung Hoa, cách nay khoảng 4000 năm. Viên Thái sư Thương Hiệt dựa trên dấu chân chim và dấu chân thú vật để lại trên cát mà sáng chế ra chữ. Tới nhà Tần ( 221-207 trước CN ), tể tướng Lý Tư chế ra bô Tam Thương gồm 3300 chữ . Tới thế kỷ thứ nhất sau CN , Hứa Thận lại làm ra bộ tự điển 10.516 từ ngữ.
Chữ Nho du nhập vào nước ta lúc mà nhà Tần sai tướng Đồ Thư sang chiếm Giao Chỉ thời An Dương Vương. Dưới triều Hán Linh Đế ( 168-189 ), có Lý Cầm người bản xứ, giỏi chữ Nho, đậu Hiếu liêm (tương đương cử nhân) được cử ra làm quan. Từ đó, nhiều người Giao Chỉ học chữ Hán. Thời tự chủ, từ Ngô Quyền tới Nguyễn Sơ, người học chữ Hán ngày càng đông.
2-Thời kỳ hưng thịnh ( Trụ ):
Bài thơ bắt đầu bằng môt hình tượng rất đẹp, chứa đựng sức sống mùa Xuân và man mác thơ Đường:
Mỗi năm hoa đào nở
Chính tác giả cho biết là ý thơ từ môt câu nổi tiếng của Thôi Hộ: ‘’Đào hoa y cựu tiếu đông phong‘’. Tất cả đều gợi nhớ môt thời Nho học thịnh hành, khi mà chữ Nho đuợc coi là chữ của Thánh Hiền. Người nào học nhiều là được xã hội kính trọng. Muốn tiến thân thì ra làm quan, muốn lui thì về làm "thầy đồ" (tiến vi quan, thoái vi sư). Đỗ đạt làm quan thì được mát mặt gia đình, dòng họ. Nếu không thì làm ‘’thầy đồ‘’(ông đồ hay anh đồ) vẫn được nhiều người nể vì, mong ước:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ
Ông Đồ hãnh diện ngồi viết chữ Nho ngay trên hè phố nhộn nhịp để khoe tài:
Mỗi năm hoa đào nở.
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu, giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Hình ảnh Ông Đồ trong bài thơ là cái biểu tượng cho nền Nho học, môt nền văn hóa kéo dài hàng mấy ngàn năm và đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước, cũng như rèn luyện tính cách đặc trưng bản lĩnh Việt Nam.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay...
Ông Đồ vừa hãnh diện vừa có môt niềm vui thanh thoát. Biết bao người tìm đến ông để thuê viết vì từ trong tiềm thức sâu xa nhất của mình. Họ tin rằng Ông Đồ là người đem đến cho họ những gì có tính chất tinh hoa nhất trong truyền thống văn hiến của dân tôc; và có được chữ đẹp như "phượng múa rồng bay" để thưởng lãm ở nhà. Đó không những là một phong tục tốt đẹp mà còn là môt niềm vui trí tuệ lớn lao mang đậm đà hương vị văn hóa dân tôc.
3-Thời kỳ suy tàn (Hoại ):
Bắt đầu từ những thập niên cuối thế kỷ 19 khi mà người Pháp mang môt nền văn hóa mới đến nước ta. Đầu thế kỷ 20, khoa thi Hương Đinh Dậu cuối cùng ở Bắc kỳ có quan Toàn Quyền Paul Doumer và phu nhân tham dự. Các sĩ tử trúng tuyển vào lạy tạ ơn những vị giám khảo và luôn cả quan Toàn Quyền cùng phu nhân. Nhà thơ Tú Xương chứng kiến:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.
Thật là môt điều nhục nhã cho các ông Tú, ông Cử. Họ là những người được xã hôi xưa kính trọng, nay phải đứng dưới sân mà lạy môt mụ đàn bà vênh váo và kênh kiệu.
Sau khóa thi chót, chữ Nho cùng với nền Hán học không còn giữ địa vị đôc tôn nữa mà nhường bước cho nền văn hóa mới với những lớp người mới. Vì vậy, người thuê viết ngày môt vắng:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng.
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm.
Mực đọng trong nghiên sầu..
Trần Tế Xương còn mỉa mai và đau sót cho môt nền Nho học đã có mặt ở nước ta từ mấy ngàn năm, nay đang bị thay thế bởi nền tân học:
Đạo học ngày nay đã hỏng rồi.
Mười người đi học, chín người thôi...
hoặc:
Nào có ra gì cái chữ Nho,
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co.
Ông Đồ không chịu nằm co. Ông vẫn kiên trì không chịu thua môt cách dễ dàng:
Ông Đồ vẫn ngồi đấy.
Nhưng mà nền văn hóa Nho đã tỏ ra bất lực trước sự tấn công mãnh liệt của ngọn gió văn hóa phương Tây, đã được quảng đại quần chúng hưởng ứng. "Ông Đồ vẫn ngồi đấy" nhưng người qua đường "lờ đi" như không trông nhìn thấy.
Qua đường không ai hay..
4- Thời diệt vong ( Diệt )
Ngày xưa mỗi độ hoa đào là Ông Đồ rộn rã "bày mực tàu giấy đỏ" và "bao nhiêu người thuê viết." Nhưng năm nay "hoa đào lại nở," mà chẳng ai thuê. Ông có cảm tưởng là những tờ hồng điều năm nay không đỏ tươi như những năm trước: "Giấy đỏ buồn không thắm;" Những lá vàng rơi trên giấy, ông không buồn nhặt. Trời lại lất phất mưa như phụ hoạ thêm cái cảnh tiêu sơ: "Ngoài trời mưa bụi bay"
Năm sau cùng (hay là thời mà cái học nhà Nho cáo chung), người ta không thấy Ông Đồ nữa:
Năm nay đào lại nở.
Không thấy ông đồ xưa,
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
Vũ Đình Liên phải kêu lên môt cách bi thiết: "Hồn ở đâu bây giờ" chính là những câu hỏi đã từng làm day dứt biết bao nhiêu người Việt yêu nước và yêu văn hóa dân tộc. Hồn nước ở đâu? Hồn thiêng sông núi ở đâu?
Bài thơ Ông Đồ trải qua 4 thời kỳ: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt giống như đời người. Chữ Nho đang ở thời kỳ diệt vong. Tại Trung Quốc bây giờ, chữ viết theo "dấu chân chim" của Thương Hiệt, đang được thay thế bằng hệ thống ‘’La Tinh hóa ‘’ là Wades Giles, dùng trong những sách của người Tây Phương viết về Trung Quốc và Pin Yin mà chính phủ Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc cho sử dụng trong các văn kiện và các tác phẩm viết về Trung Quốc. Chữ Nho rồi sẽ lịm tắt như như những tử ngữ của người Incas Nam Mỹ Châu và người Phénicie Ai cập cách nay 6000 năm./.
Nguyễn Mộng Khôi
Bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên xuất hiện khoảng giữa thập niên 30. Trải dài môt thời gian gần 70 năm mà vẫn được nhiều người ưa thích. Có trường đem bài thơ dạy học trò. Những học giả nổi tiếng như anh em Hoài Thanh, Hoài Chân viết:
‘’ Theo đuổi nghề văn, làm môt bài thơ như thế cũng đủ, nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với đời người.’’
Ông Ngô Văn Phú phê bình:
"Ông Đồ của Vũ Đình Liên dung dị, nhưng là môt thi phẩm không ai làm được. Kể từ bấy đến giờ và có thể nói cả sau này nữa."
Năm 1999, ở Hoa Kỳ, nhạc sĩ Vĩnh Sử phổ nhạc, do Làng Văn thực hiện trong video tape ‘’ Khi Mùa Xuân Đến’. Cô Vân Khanh hát được nhiều khán thính giả khen ngợi:
Mỗi năm hoa đào nở.
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng.
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm.
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy.
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở.
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Ông Đồ là môt nhân vật có thật ngoài đời. Ông thường ngồi ở phố Hàng Bồ, Hà nôi. Vũ Đình Liên là cháu ngọai môt cụ đồ nho; vì vậy tác giả đã cảm thông những thời kỳ huy hoàng cũng như đen tối của nhà nho. Ông tiếc cho môt nền Nho học đang suy tàn. Còn đâu cái thời ‘’ kẻ sĩ ‘’ có danh vị vua ban, có chỗ đứng hàng đầu trong dân dã.
Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt.
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên.
Nguyễn Công Trứ
Bài thơ chỉ có 20 câu ngắn ngủi với vỏn vẹn 100 tiếng mà lại bao quát được môt vấn đề quan trọng. Từ thuở chữ Nho thành hình ở Trung Hoa. Sau đó du nhập vào Việt Nam, rồi thời kỳ hưng thịnh hàng chục thế kỷ, tiếp theo là suy tàn và đang trên đà lịm tắt. Bài thơ đã đi trọn môt vòng sinh mệnh qua 4 thời kỳ: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt.
1-Thời kỳ thành hình và du nhập (Sinh):
Chữ Nho có mặt thời Hoàng Đế ở Trung Hoa, cách nay khoảng 4000 năm. Viên Thái sư Thương Hiệt dựa trên dấu chân chim và dấu chân thú vật để lại trên cát mà sáng chế ra chữ. Tới nhà Tần ( 221-207 trước CN ), tể tướng Lý Tư chế ra bô Tam Thương gồm 3300 chữ . Tới thế kỷ thứ nhất sau CN , Hứa Thận lại làm ra bộ tự điển 10.516 từ ngữ.
Chữ Nho du nhập vào nước ta lúc mà nhà Tần sai tướng Đồ Thư sang chiếm Giao Chỉ thời An Dương Vương. Dưới triều Hán Linh Đế ( 168-189 ), có Lý Cầm người bản xứ, giỏi chữ Nho, đậu Hiếu liêm (tương đương cử nhân) được cử ra làm quan. Từ đó, nhiều người Giao Chỉ học chữ Hán. Thời tự chủ, từ Ngô Quyền tới Nguyễn Sơ, người học chữ Hán ngày càng đông.
2-Thời kỳ hưng thịnh ( Trụ ):
Bài thơ bắt đầu bằng môt hình tượng rất đẹp, chứa đựng sức sống mùa Xuân và man mác thơ Đường:
Mỗi năm hoa đào nở
Chính tác giả cho biết là ý thơ từ môt câu nổi tiếng của Thôi Hộ: ‘’Đào hoa y cựu tiếu đông phong‘’. Tất cả đều gợi nhớ môt thời Nho học thịnh hành, khi mà chữ Nho đuợc coi là chữ của Thánh Hiền. Người nào học nhiều là được xã hội kính trọng. Muốn tiến thân thì ra làm quan, muốn lui thì về làm "thầy đồ" (tiến vi quan, thoái vi sư). Đỗ đạt làm quan thì được mát mặt gia đình, dòng họ. Nếu không thì làm ‘’thầy đồ‘’(ông đồ hay anh đồ) vẫn được nhiều người nể vì, mong ước:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ
Ông Đồ hãnh diện ngồi viết chữ Nho ngay trên hè phố nhộn nhịp để khoe tài:
Mỗi năm hoa đào nở.
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu, giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Hình ảnh Ông Đồ trong bài thơ là cái biểu tượng cho nền Nho học, môt nền văn hóa kéo dài hàng mấy ngàn năm và đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước, cũng như rèn luyện tính cách đặc trưng bản lĩnh Việt Nam.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay...
Ông Đồ vừa hãnh diện vừa có môt niềm vui thanh thoát. Biết bao người tìm đến ông để thuê viết vì từ trong tiềm thức sâu xa nhất của mình. Họ tin rằng Ông Đồ là người đem đến cho họ những gì có tính chất tinh hoa nhất trong truyền thống văn hiến của dân tôc; và có được chữ đẹp như "phượng múa rồng bay" để thưởng lãm ở nhà. Đó không những là một phong tục tốt đẹp mà còn là môt niềm vui trí tuệ lớn lao mang đậm đà hương vị văn hóa dân tôc.
3-Thời kỳ suy tàn (Hoại ):
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.
Thật là môt điều nhục nhã cho các ông Tú, ông Cử. Họ là những người được xã hôi xưa kính trọng, nay phải đứng dưới sân mà lạy môt mụ đàn bà vênh váo và kênh kiệu.
Sau khóa thi chót, chữ Nho cùng với nền Hán học không còn giữ địa vị đôc tôn nữa mà nhường bước cho nền văn hóa mới với những lớp người mới. Vì vậy, người thuê viết ngày môt vắng:
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm.
Mực đọng trong nghiên sầu..
Trần Tế Xương còn mỉa mai và đau sót cho môt nền Nho học đã có mặt ở nước ta từ mấy ngàn năm, nay đang bị thay thế bởi nền tân học:
Đạo học ngày nay đã hỏng rồi.
Mười người đi học, chín người thôi...
hoặc:
Nào có ra gì cái chữ Nho,
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co.
Ông Đồ không chịu nằm co. Ông vẫn kiên trì không chịu thua môt cách dễ dàng:
Ông Đồ vẫn ngồi đấy.
Nhưng mà nền văn hóa Nho đã tỏ ra bất lực trước sự tấn công mãnh liệt của ngọn gió văn hóa phương Tây, đã được quảng đại quần chúng hưởng ứng. "Ông Đồ vẫn ngồi đấy" nhưng người qua đường "lờ đi" như không trông nhìn thấy.
Qua đường không ai hay..
4- Thời diệt vong ( Diệt )
Ngày xưa mỗi độ hoa đào là Ông Đồ rộn rã "bày mực tàu giấy đỏ" và "bao nhiêu người thuê viết." Nhưng năm nay "hoa đào lại nở," mà chẳng ai thuê. Ông có cảm tưởng là những tờ hồng điều năm nay không đỏ tươi như những năm trước: "Giấy đỏ buồn không thắm;" Những lá vàng rơi trên giấy, ông không buồn nhặt. Trời lại lất phất mưa như phụ hoạ thêm cái cảnh tiêu sơ: "Ngoài trời mưa bụi bay"
Năm sau cùng (hay là thời mà cái học nhà Nho cáo chung), người ta không thấy Ông Đồ nữa:
Năm nay đào lại nở.
Không thấy ông đồ xưa,
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
Vũ Đình Liên phải kêu lên môt cách bi thiết: "Hồn ở đâu bây giờ" chính là những câu hỏi đã từng làm day dứt biết bao nhiêu người Việt yêu nước và yêu văn hóa dân tộc. Hồn nước ở đâu? Hồn thiêng sông núi ở đâu?
Bài thơ Ông Đồ trải qua 4 thời kỳ: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt giống như đời người. Chữ Nho đang ở thời kỳ diệt vong. Tại Trung Quốc bây giờ, chữ viết theo "dấu chân chim" của Thương Hiệt, đang được thay thế bằng hệ thống ‘’La Tinh hóa ‘’ là Wades Giles, dùng trong những sách của người Tây Phương viết về Trung Quốc và Pin Yin mà chính phủ Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc cho sử dụng trong các văn kiện và các tác phẩm viết về Trung Quốc. Chữ Nho rồi sẽ lịm tắt như như những tử ngữ của người Incas Nam Mỹ Châu và người Phénicie Ai cập cách nay 6000 năm./.
Nguyễn Mộng Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét