Mượn
một phần bối cảnh có thật, chuyện viết bằng tưởng tượng, để nhớ Nguyễn Ngọc T
& Huỳnh Lâm T, đã mất từ những năm đổi đời một chín bảy sáu.
Để
kính dâng hương hồn hai bác Nguyễn N A, người nhân từ phúc hậu, đã cho không biết
bao nhiêu nhưng chưa có lần nào nhận.
Chờ xe tới phiên qua, vì còn
đậu khá xa, hai thằng, cũng như một số lớn hành khách khác, xuống thả bộ theo
chuyến Phà trước qua bờ bên kia Bắc Mỹ Thuận. Trời ngấp nghé giữa trưa, nắng rực
lên cả một khoảng phố xá mênh mông rộng, đứng bóng người, hanh hanh nóng, lấp xấp
trải dài trên những chùm hoa tím ngắt của mấy mảng lục bình, lặng lờ trôi theo
từng cơn sóng vỗ vào hông thành chiếc phà cũ kỷ, chưa thấy màu sơn mới. Tiếng
rao hàng lanh lảnh của đám đàn bà con gái từng chập vọng ra xa, lấn át tiếng máy
nổ đều đều, ngái ngủ, lướt nhẹ trên nước, con sông hửng hờ, đã quá quen rồi cảnh
ngày nào vẫn vậy, lặng lẽ đi về đôi bờ, không buồn có thêm chút sóng lớn. Hiển
bỏ đi trước khá xa, Nguyên thủng thỉnh phía sau, dọc theo bên này con đường lên
tới ngã ba Vĩnh Long-Sa Đéc tìm quán ngồi ăn trưa. Đứng đâu cũng có mùi thịt nướng
thơm từ đầu sông tới cuối đường. Quán nào quán nấy, chật ních người vào ra nói
nói cười cười. Hiển vẫn tiếp tục đi trước, mất hút trong dòng người xuôi ngược
rồi trở lại đứng chờ, ra tay làm dấu gọi Nguyên lẹ lên. Lưa thưa đâu đó, ở phía
ngoài vàm sông rộng, vài đám mây xám đen lẻ loi, lửng lờ xuống thấp theo chiều
gió xế trưa, hừng hực nóng.
Vào quán, vừa ngồi xuống, Hiển chưa kịp nói gì thì đã có tiếng con gái
chào Nguyên từ phía bàn cuối cùng. Cả hai cùng quay lại nhìn, Nguyên chưng hửng,
không ngờ lại gặp lại Khánh ở đây. Khánh là cô học trò lớp mười hai của trường
trung học Tống Phước Hiệp mà anh ta đã gặp tại hành lang văn phòng ty Hành
Chánh trong Tòa Hành Chánh Vĩnh Long chừng vài tuần trước đây. Hiển cũng trố mắt
ngạc nhiên, quay qua nói nhỏ với Nguyên, sở dĩ hắn réo anh đi lẹ lên là vì tìm
thấy Khánh cùng hai cô bạn khác vào quán này. Khánh giới thiệu, hai cô bạn đi
chung bẽn lẽn gật đầu, hai thằngcười chào đáp, rồi ra dấu được nhập bọn ngồi
cùng bàn, vì bên đó vẫn còn chỗ trống. Khánh và hai cô bạn lên Sài Gòn từ sáng
hôm qua, hỏi han người quen chỗ ăn chỗ ở trước khi mùa thi tú tài Hai tới. Cả bọn
vừa ăn vừa nói đủ thứ chuyện làm quen, từ chuyện chợ Trường An, Long Hồ của
Vĩnh Long tới chuyện ngày mai ngày sau. Hiển biết ra, Nguyên, Khánh biết nhau rồi
nên chỉ ngồi chậm rãi ăn, thỉnh thoảng gục gặc đầu ra chiều thích thú. Đoàn xe
đò qua bên này bờ, đậu nối đuôi dài gần lên tới ngã ba, mấy anh lơ, chạy lăng
xăng lên xuống thúc hối hành khách của mình trở lên xe, nhất là mấy chị bạn
hàng, của các chuyến đi Cần Thơ, Long xuyên, cứ nhũng nha nhũng nhẵn tìm tìm kiếm
kiếm. Nắng có phần dịu bớt, trời đã có nhiều mây đen ở phía xa miệt Sa Đéc theo
chiều gió về ngang. Xe đò từng chiếc uể oải, lần lượt rời bến Bắc Mỹ Thuận, người
bán người buôn vẫn còn đông nghẹt trên đường hai bên bờ, chờ chuyến Phà chót cuối
ngày. Nguyên chào tạm biệt Khánh, hứa sẽ đến nhà thăm như đã nói hôm trước, Hiển
dài dòng gì đó với hai cô kia, xe chuyển bánh rồi mà hắn vẫn còn nói với theo
tiếng mất tiếng còn.
Buổi sáng, trước đây vài tuần,
đám bạn cùng xuống thực tập ở Vĩnh Long, khoái chuyện nhậu nhẹt, trong đó có Hiển,
nên kéo nhau đi Chợ Lách, vì bây giờ là mùa ốc gạo với ông đàn anh Phó Quận. Biết
Nguyên không uống rượu được nên bọn họ cũng chẳng màng ép uổng. Ăn sáng xong,
Nguyên thả bộ dọc theo hông nhà thờ Chánh tòa, qua cầu, giờ này nhánh sông nhỏ
chảy ngang vẫn chưa chịu thay nước lớn. Đến tòa Hành Chánh thì ông trưởng ty
Hành Chánh khóa đàn anh, nơi Nguyên đang thực tập tháng này, không biết vội vã
chuyện gì, bắt tay hỏi ăn sáng chưa rồi bỏ đi một mạch hẹn chiều trở lại, không
buồn nghe trả lời. Người đến có việc hay xin giấy tờ, ngồi chờ cũng khá đông
trên mấy cái băng ghế dài, trước hành lang. Đọc sơ mấy cái văn thư thường nhật
xong, cô thư ký nhận giấy tờ làm dấu chưa có gì cả, ông Chủ sự được lệnh lên gặp
ông Chánh Văn Phòng nên cũng đã đi rồi, Nguyên bỏ ra ngoài, ngồi chổ cái băng
ghế trống, tán dốc với mấy anh làm việc bên Hội Đồng Tỉnh đang chờ gì đó ở ty Nội
An, nằm kế liền bên.
Không lâu sau, ông bác trông lớn tuổi, người xem ra phúc hậu, tóc bạc
hoa râm, đi cùng với một cô con mặc gái áo dài trắng, tuổi trạc mười bảy mười
tám, tóc xõa dài ngang lưng, khá đẹp, đến bàn cô thư ký, đưa xấp giấy mỏng, nói
gì đó, nhỏ nhẹ cười rồi cả hai lùi lại, ngồi chờ ngay phía đầu còn trống của
cái băng dài mà Nguyên đang ngồi tự nãy giờ. Nguyên ngừng nói, quay qua chào,
ông bác nhìn vào trong, về phía bàn nhận giấy tờ, cười nhẹ. Cô thư ký đứng lên
ngồi xuống, ngó ra phía Nguyên. Có lẽ thấy hơi lâu, ông bác đứng lên, đi đến hỏi
đôi câu rồi trở lại chỗ cũ. Định trở vào phòng thì nghe tiếng ông trưởng ty Nội
An kêu mình khi ông bước ra, theo sau dặn dò mấy anh bên Hội Đồng Tỉnh, nên
Nguyên nấn ná chưa đi. Hai người kéo nhau ra ngoài bực thềm có nắng sáng, cười
nói luôn miệng. Giờ này người ra người vô, càng lúc càng nhiều hơn trong sân
tòa Hành Chánh, trời hâm hấp ấm dần dù vẫn còn có đôi ba cụm mây màu xám nhạt
lang thang, che ngang lưng trời.
Thấy ái náy sao đó, cô thư ký ngài ngại cầm xấp giấy mà cô gái đưa hổi
nãy, đi ra chỗ Nguyên đứng. Cả hai, ngưng câu chuyện, Nguyên bước vội, bỏ theo
cô quay lại chỗ hai cha con đang ngồi, ông trưởng ty Nội An cũng không còn đứng
đó. Nguyên cầm xấp giấy, ngồi xuống kế bên ông bác, nhỏ nhẹ:
-Dạ xin lỗi bác, cháu vô ý quá, không
nghĩ là bác đang chờ ký mấy cái bản sao cho em, nên để bác phải chờ hơi lâu.
Hai cha con ngạc nhiên trố mắt nhìn mà không nói được gì. Cô thư ký, lúc
bây giờ mới lên tiếng:
-Bác thấy hông, con cũng sốt ruột
nhưng không dám, vì ông trưởng ty đang nói chuyện, nên đành chờ như bác thôi.
Cô đưa cây viết cho Nguyên, chào hai người rồi trở vào trong văn phòng.
Nguyên vừa ký vừa đọc sơ, tờ giấy chứng chỉ Tú Tài Một cấp cho “Trần Thị Khánh”
còn in rõ mực và thơm mùi giấy mới. Đưa lại cho cô con gái, một lần nữa, Nguyên
xin lỗi, định đứng dậy cáo từ, thì ông bác lên tiếng:
-Xin cho tôi hỏi, ông đến thay cho
ông trưởng ty cũ hả?
-Dạ không có, con là sinh viên xuống
tập sự thôi bác à, nhưng hôm nay nhận nhiệm vụ làm trưởng ty một bửa.
Nguyên vừa nói vừa nhìn hai người
cười, cô gái bẽn lẽn, ôm cái cặp da đi học cười khẻ theo. Ông bác tiếp lời, cùng
một lúc ngó qua cô gái:
-Hân hạnh đươc biết ông, còn trẻ quá,
đây là em Khánh, con gái thứ hai của gia đình tôi, vừa đậu Tú Tài Một năm nay,
tôi là Hậu, thứ tư.
Nguyên xoa tay đứng dậy:
-Dạ, con là Nguyên, bác tư Hậu cứ gọi
Nguyên được rồi. Con chỉ còn thực tập tại tòa Hành Chánh vài tuần nữa thôi, cuối
tháng là phải đi xuống quận Minh Đức. Nay mai, nếu bác còn cần gì, thì cứ tự
nhiên đến tìm con ở đây, xem con có thể giúp gì không.
Khánh nhẹ cúi đầu chào, ông bác bắt tay Nguyên:
-Nhà tôi ở ngã ba Long Hồ, căn nhà có
vườn cây sân trước và cái cổng phủ đầy
bông Giấy đỏ, xế chỗ bến xe hay ngừng, cũng ngang trên đường đi Cái Nhum, hôm
nào tiện, rãnh rỗi, mời ông, ủa quên, mời cháu ghé chơi. Cứ xuống chỗ bến xe là
tìm được ngay, không lộn nhà ai đâu.
Nguyên gật đầu cám ơn và hứa sẽ đến thăm rồi theo tiễn hai người ra tới ngoài
cổng tòa Hành Chánh. Đi khỏi một đoạn xa, Nguyên vẫn còn đứng đó, bác Tư Hậu và
Khánh quay lại vẫy tay, hai cha con nhìn nhau cười. Bất chợt, Nguyên cảm thấy
lòng mình có cái gì là lạ, cái là lạ mà suốt hơn hai năm qua anh chưa hề có,
Nguyên trở ngược vào trong, bóng người cảnh sát gát cổng gật đầu chào, trải dài
khẳng khiu theo chiều nắng lên giữa ngày, bắt đầu chói chang và gay gắt nóng.
Sáng thứ bảy, chuyện đi theo ông đàn anh Phó quận
Minh Đức, thăm cái xã bên kia sông để xem vụ bầu cử Hội Đồng Xã bị đình lại.
Nguyên đón xe về Vĩnh Long sớm hơn mọi bữa, chiếc xe đò nhỏ cũ cũng không có mấy
người đi, trời chưa đủ nắng, mưa mù mờ ở phía đường chân trời xa xa. Xuống xe tại
ngã ba Long Hồ, ngay chỗ bến ngừng đón khách, Nguyên lửng thửng băng qua đường,
tới trước cổng nhà gọi vọng vào trong, đứng chờ, xác bông Giấy đỏ úa, khô gầy rụng
đầy một khoảng lớn trong sân. Bác Tư Hậu mừng rỡ, bắt tay Nguyên, mời vô nhà. Ở
một phía đầu vườn, sát mái hiên trước, cụm hoa Sứ già lưa thưa vài nụ hoa mới nở.
Bác Tư gái ân cần, thân mật, hỏi han Nguyên đủ điều, từ chuyện nhà cửa chuyện học
hành, đến tương lai trước mặt. Bác Tư Hậu, là công chức hỏa xa thời Pháp đã hồi
hưu từ lâu, hai vợ chồng về lại quê nhà, cất căn nhà ngói mái âm dương kiểu xưa
ở ngã ba Long Hồ từ những năm có hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Gia đình
có hai cô con gái, người chị lớn đã lập gia đình, chồng chị là sĩ quan cấp úy của
sư đoàn 9, bị thương trong trận Thất Sơn nặng nên đã được cho giải ngủ, có tiệm bán sách trên đường
chính ngang qua chợ tỉnh. Hai vợ chồng ở nhà riêng, nằm đối diện văn phòng ty
Thuế Vụ. Khánh là con út, đang học lớp đệ nhất mà Nguyên đã gặp hôm trước. Hai
bác có vườn trồng chôm chôm “java” bên
cái cồn nhỏ ở Chợ Lách, Nguyên ở không
lâu rồi ra về, Khánh cùng mấy cô bạn đi chơi bên vườn từ lúc sáng sớm. Hai bác Tư đưa Nguyên ra tới cổng, nhắc đi nhắc lại lời mời, tuần sau đến ăn cơm trưa một
bữa cho vui.
Sau lần, có Hiển cùng đi, theo gia đình bác Tư Hậu qua thăm vườn chôm
chôm bên cù lao, Nguyên mang “cái gì là lạ mà anh đã chưa hề có trong suốt hơn
hai năm qua” nói thật lòng mình với chị Thảo, chị của Khánh, hôm ngang qua tiệm
sách, sau giờ ăn cơm trưa về lại tòa Hành Chánh gặp ông Phó Tỉnh. Nguyên đã
thương Khánh ngay từ lần gặp cô ta ở ty Hành Chánh buổi sáng hôm đó. Hiển là thằng
bạn khá thân, thân từ ngày hắn lang thang bỏ Phan Thiết vào Sài Gòn, rớt tú tài
hai như Nguyên, rồi theo Nguyên về ở trọ trên căn gác cây, tại một cái hẽm nhỏ đầu
đường Cộng Hòa, gần chợ Nancy, sau hôm hai thằng gặp nhau trong quán cơm chay
đường Hàm Nghi, ngó qua ga xe lửa, cũng là ngày Mai Anh rời Sài Gòn đi du học.
Chuyện tình giữa Nguyên và Mai Anh kết thúc không có chia tay, không có đưa tiễn,
không còn gì để lại, ngoài lá thư ngắn của cô mà anh nhận được qua đường bưu điện
với lời xin lỗi. Cả hai người ngồi cùng một phía bàn ngó ra ngoài, xe cộ và người
chen lấn nhau, xen kẻ nhau trên đường xuôi ngược. Cơn bão tình, chấp vá những đớn
đau, ngậm ngùi trong lòng Nguyên từ bao nhiêu ngày qua chợt như đã bỏ đời bay
theo từng giọt nắng chiều thoi thóp nóng, lưa thưa len nhẹ ở phía cuối sông khi
Nguyên nói cho Hiển nghe chuyện đời mình, buồn nhiều vui ít.
Nguyên quen Mai Anh, trong sân
trường Hưng Đạo, hôm đi theo chị Tú, học cùng lớp với cô ta, con của người bạn
thân, ân nghĩa gì đó với mẹ mình, nhà ở gần rạp hát Long Vân, khi hai người còn
bôn ba đâu đó ở miệt Mỹ Tho Cai Lậy, xem kết quả tú tài một, ngày xuống Sài Gòn
bằng chuyến xe đò sớm nhất từ Tây Ninh. Nhà Mai Anh là căn phố lầu, bên dưới là
tiệm sách Toàn Văn, ở ngã tư Lê Văn Duyệt – Trần Quý Cáp, ngó xế qua khu chơ
Đũi. Giữa nửa năm đệ nhất, mẹ Nguyên trở bệnh, căn bệnh lao phổi đã nằm im một
thời gian khá lâu, nay bộc phát, làm bà yếu đi và không còn đủ sức ngày hai buổi
đi xe lôi máy, từ Trâm Vàng ra ngồi bán sạp rau cải nhỏ, ngoài chợ Gò Dầu nữa. Nguyên
định thôi học, tìm kiếm việc làm gì đó, nuôi bệnh mẹ, một thân một mình bà, một
đời góa bụa, tần tão gánh gồng nuôi con khôn lớn, học hành như vầy là quá đủ
cho Nguyên rồi. Hôm đưa mẹ xuống nằm ở bệnh viện Hồng Bàng, theo lời bà, Nguyên
đến báo tin cho mẹ chị Tú biết. Vài hôm sau, mẹ chị Tú vào thăm, hai người nắm
tay nhau sụt sùi khóc. Biết tánh mẹ, không bao giờ chịu nhờ vã ai, nghe lời
khuyên của mẹ chị Tú, Nguyên xuống Sài Gòn ghi học tiếp nửa năm đệ nhất tại trường
Văn Học, làm phụ công ban đêm cho tiệm bánh tây của mẹ chị Tú ở đường Phan Đình
Phùng, vừa có tiền đóng học phí vừa săn sóc được mẹ mình. Từ đó, Nguyên thường
gặp lại Mai Anh và cuối cùng, như cái định luật yêu thương mà đường đời đã có của
trời đất, hai người yêu nhau, cũng có nhớ nhung, có kỷ niệm, có mộng mơ hẹn ước
với đôi ba lần nắm tay và vài cái hôn thẹn thùng nhè nhẹ trên môi trên mắt, rồi
dừng ở đó không hơn không kém. Nửa năm đó, có lẽ, là những ngày tháng vui nhất
của đời mình, đời của một thằng con nhà nghèo, cơm nguội cải chua, cá rô ruộng
muối kho, chưa hề dám nghĩ tới.
Trước ngày thi tú tài hai vài hôm, mẹ Nguyên rời bệnh viện trở về Trâm
Vàng, bác sĩ ở đây cho biết bà đã khỏi bệnh. Hai mẹ con tay xách tay mang về
nhà, có Mai Anh, chị Tú và mẹ chị theo ra đưa ở bến xe Tây Ninh, đường Phạm Hồng
Thái. Mẹ chị Tú, dúi vào tay Nguyên cái bao thư dầy, bảo cất nó, lựa lúc nào
thuận tiện đưa cho mẹ mình, đừng nói là của bà. Căn nhà tranh nhỏ được người
quen bên ngoại coi giùm, vẫn lặng thinh trên nền đất như trước, đám cải xanh trước
sân, không người tưới từ gần sáu tháng qua, hình như đang cố gượng mình sống lại
sau mấy đám mưa muộn cuối mùa.
Thi rớt, Nguyên không đành để mẹ buồn, nên nói dối bà là đang chuẩn bị
lo lên đại học. Nguyên ở lại Sài Gòn, xin được một việc làm ở công ty Sakibomi
bên bến Bình Đông, thôi không còn làm ở tiệm bánh của mẹ chị Tú nữa. Nguyên
chán nản, thất vọng, gặp lại Mai Anh lần cuối bên ngoài sân trường Luật trong
ngày đầu của năm học mới rồi thôi. Dường như cả hai người đã quên không hứa
nhau chờ lần hẹn tới như những ngày trước nữa. Sau ngày Mai Anh đi, Nguyên mang
buồn tan tác theo dòng đời ngược xuôi, đem chút còn lại của tình yêu như một
phần của kiếp người, chôn kín vào những trang sách trong mỗi đêm khuya dài chờ
sáng. Từ đó, Nguyên tự bảo lòng mình, thôi không còn dám tìm ai để mà thương, nếu
một mai, tình cờ gặp một người nào mà anh cảm thấy tim lâng lâng, hồn náo nức,
thì người đó sẽ là cuộc tình duy nhất và cuối cùng của đời mình. Cuối năm,
Nguyên đậu tú tài hai cùng với Hiển, rồi ghi danh học Luật và may mắn hơn, là cả
hai lại được vào Học viện Quốc Gia Hành Chánh cùng một khóa năm sau đó. Lý do tại
sao Hiển đã thúc Nguyên đi lẹ lên, khi hai người chờ xe qua Bắc Mỹ Thuận, ba
năm cùng nếm buồn vui tình bạn, hơn hai năm qua, quả thật Nguyên chưa hề nhắc
hay nói về đàn bà con gái, Nguyên vô tư như một người lạnh cảm, Hiển có linh
tính cho biết, đã tìm ra người của cuộc tình cuối đời chàng Nguyên nhưng không
ngờ là họ đã gặp nhau rồi.
Nguyên cũng như Hiển lúc này
ít khi về Sài Gòn, căn phòng hai người ở chung trong khu ký túc xá vẫn đóng cửa
để đó, vắng tanh và không có ánh đèn học bài khuya. Hiển đã có cô bạn gái khá
xinh, Hương, là thư ký của ty tài chánh nơi anh ta đang thực tập, hai người
không rời nhau nửa bước, hắn giờ này thường ăn cơm nhà con gái người ta hơn là
ngồi chờ ba món mặn xào, ở tiệm cơm trên con đường cạnh bờ nhánh sông nhỏ như mấy
anh chàng khác. Sau Tết ta, từ ngày trở xuống Vĩnh Long, ông đàn anh Phó quận
Minh Đức để Nguyên mặc tình đi trễ về sớm, cho nên anh thường đến cùng Khánh thả
bộ bên nhau trên đường đến tiệm sách chị Thảo, những chiều trường tan học, đôi
ba lần, khi tiệm đóng cửa chị Thảo để Nguyên lấy xe Honda của chị đưa Khánh về
nhà. Lần nào cũng vậy, thấy Nguyên là bác Tư gái một hai biểu phải vào nhà, ở lại
ăn cơm chiều cho bằng được. Con đường lạ từ trường Tống Phước Hiệp về nhà Khánh,
giờ là con đường quen, quen từ gốc cây già tới viên gạch vụn nằm lẻ loi một
mình ở lề ngã tư tự hồi nào không ai biết, và họ nhìn nhau hỏi thầm, sao đường
về không dài thêm chút nữa. Giờ thì Nguyên cũng không khác gì Hiển, cũng thường
ăn cơm nhà con gái người ta hơn là ăn tiệm.
Xong năm thực tập, Nguyên cũng như đám bạn ở các tỉnh khác lần lượt về lại
trường học năm thứ ba. Khánh đậu tú tài hai, lên Sài Gòn ở tại nhà người dì bà
con, bắt đầu năm thứ nhất trường Luật. Nhờ số tiền trường cấp cho hàng tháng, tạm
gọi tiền lương cộng với số tiền đi dạy thêm một số giờ ở một trường tư thục
trên đường Hậu Giang, Chợ Lớn, với bản tính không phung phí, Nguyên không phải
vất vả chuyện tiền bạc. Thỉnh thoảng anh cũng ghé qua thăm mẹ chị Tú, lần nào
bà cũng hỏi han có thiếu thốn gì không rồi thì đưa cho mấy túi đầy ắp trái cây,
bánh ngọt mang về, đám bạn ở ký túc xá ăn một hai ngày chưa hết. Nguyên cũng
đưa Khánh đến làm quen chị Tú, năm cuối đại học Sư Phạm sắp ra trường, hai mẹ
con khen Khánh tiếng một tiếng hai làm Nguyên vui lây. Lần nào Khánh về Vĩnh
Long, hai bác Tư Hậu cũng nhắn lên, nhắc Nguyên về chơi, ở dưới đó trông lắm. Khánh
cũng thường theo Nguyên lên Gò Dầu thăm mẹ, bệnh tuy có thuyên giảm hai năm qua,
nhưng xem ra bà còn yếu và xanh xao như
màu lá trầu úa nắng cuối sân nhà sau. Tuy yếu lắm, nhưng bà vẫn nhờ mấy chị bà
con quanh nhà, đở đưa, đón xe lôi máy đi chùa Thạnh Lâm vài lần trong năm, đọc
kinh, đốt nhang cầu nguyện. Ước mơ có ngày Nguyên công thành danh toại, đã xem
như xong rồi, còn chuyện trăm năm thì đang nhìn thấy đâu đó nhưng ai biết được,
bà cầu trời Phật, đã trót phù hộ cho cuộc đời khốn khó, nghèo nàn của hai mẹ
con thì xin thương cho trọn vẹn, ngày đi theo ông bà, bà không còn gì để hối tiếc.
Đầu hè, cuối năm thứ ba, sau
ngày ba mẹ Khánh từ Vĩnh Long lên Gò Dầu thăm, chừng vài hôm, mẹ Nguyên trở xuống
bệnh viện Hồng Bàng vì bệnh lại tái phát, rồi mất ở đó, ra đi thanh thản.
Nguyên đau đớn tột cùng, không làm gì khác hơn được, vì biết rằng trước sau nó
cũng phải tới. Khánh đã về Vĩnh Long rồi, Nguyên chỉ còn đủ thời giờ đón xe
xích lô qua nhà chị Tú báo tin, trước khi theo chuyến xe đưa xác bà về Trâm
Vàng chiều hôm đó. Đám tang nghèo nàn, không ngựa xe, không kèn trống, không
cành hoa, bà con trong xóm phụ nhau, người khiêng người kéo, cái quan tài lưa
thưa gỗ vụng, đưa mẹ Nguyên ra chôn ở nghĩa địa của giòng họ xa gần cuối ấp, giữa
khu đất hoang, quanh năm chỉ có trời và đất. Hiển từ Phan Thiết vào Sài Gòn, được
tin, theo chị Tú và mẹ đón xe đò lên Gò Dầu, trễ không kịp rãi chút đất tiễn bà
đi. Trước mộ, mẹ chị Tú ngồi nâng niu nấm mồ mới đấp hôm trước, thì thầm, nước
mắt tuôn từng giọt dài, Hiển đứng lặng thinh nhìn, lòng trĩu nặng nổi đau
thương bạn. Mưa bất chợt lất phất, man mác tiếng chuông lễ chiều của nhà thờ họ
Bình Nguyên về ngang, ray rứt, xua nắng úa màu lác đác rụng. Hiển ngủ lại đêm
đó với Nguyên, sáng hôm sau về Sài Gòn trên chuyến xe đò sớm, Nguyên ở lại Trâm
Vàng, không nói chừng nào trở xuống trường, Hiển cũng chẳng buồn hỏi.
Trưa chủ nhật, trời dạo này hay
mưa, không lớn nhưng bất chợt, từ chùa Thạnh Lâm về, sau khi gởi tấm hình đen
trắng của mẹ mình, nhờ ông sư già trụ trì, đọc kinh cầu siêu giùm mỗi khi có lễ,
vừa xuống xe lôi máy quen ở đầu ngỏ đường đất vào xóm, thì đám con nít đang
chơi đâu đó túa ra, hô to cùng lượt, cho biết ở nhà có ai tới chờ từ nãy giờ. Khánh
ôm chầm lấy Nguyên đỏ hoe mắt, bác Tư trai đứng lặng thinh, bác Tư gái bùi
ngùi, cố vịn tay Hiển để đứng vững. Hiển đi Vĩnh Long ngay hôm sau ngày xuống
Sài gòn, ghé qua nhà Khánh báo tin rồi hẹn Hương, cô bạn gái sẽ trở lại,
sau khi đưa ba mẹ Khánh đi Gò Dầu. Khánh cùng ba mẹ đốt nhang, ngồi trước mộ thật
lâu, bác gái nói thầm “thôi chị hãy yên lòng ra đi, tôi nhận thằng Nguyên là
con rể rồi”, nắng lên thấp thỏm có chút mùi đất ướt sau cơn mưa vừa dứt. Đám cải xanh có bông vàng nho nhỏ, loại rau mẹ
Nguyên thường bày bán trên sạp ngoài chợ, trồng quanh nơi bà nằm, mới vài ngày
qua giờ hình như đang trở mình nhìn trời cao, một màu lá non xanh mướt. Mọi người
trở lại nhà, giữa nghĩa địa buồn thiu cuối xóm nghèo, quạnh hiu một mình mẹ
Nguyên ở lại, lẻ loi như cái lẻ loi mà bà đã mang theo suốt đời người, sau ngày
ba bỏ bà đi về với đất.
Nguyên ngồi trong văn phòng quận
Minh Đức nhìn ra, chợ quận trưa rồi mà chỉ có chừng vài chục người bán, lúp
súp người lên bờ xuống ghe, tàu nhỏ tàu lớn, ra sức nhấp nhô, lắc lư theo chiều
con nước vừa lên với đám lục bình đầy hoa tím ngắt trên sông, đám học trò trong
sân trường tiểu học tụm năm tụm ba, tóc tay màu bùn, suýt xoa chờ nắng ấm. Cũng
đã được hơn nửa năm, từ ngày trở lại Vĩnh Long, thay chỗ cho ông Phó quận khóa
đàn anh đi Long Xuyên lên chức, nhận nhiệm vụ mới, Nguyên ở tại căn cư xá mà
năm trước anh đã ở trong năm thực tập,
được tỉnh cấp cho cái xe jeep còn khá tốt đi về hai buổi. Cơm nước trưa ở dưới
quận, có mấy cô nhân viên lo, chiều về Vĩnh Long thì khi ăn nhà chị Thảo khi
thì ở nhà ba mẹ Khánh. Căn nhà vẫn vậy
nhưng vắng hơn vì giờ chỉ có một mình, cuối tuần thì có Hiển cũng đở buồn, đám dây leo hoa trắng không biết tên, cứ lạnh lùng bám tường mà leo lên, không
màng ai đi ai ở. Tiếng hát của chị em, con gái ông chủ tịch Hội Đồng tỉnh nhà bên,
đã lên lớp mười một mười hai gì đó, với bài tình ca quen quen, vẫn chưa hay hơn
xưa. Không may mắn, đành chịu, Hiển sang Sa Đéc nhận chức trưởng ty Tài Chánh,
thứ bảy, chủ nhật mới qua Vĩnh Long với Hương, đường không xa mấy. Gia đình ba mẹ
Khánh, bàn tính với Nguyên chuyện cưới hỏi tới đây, bên đàn trai, thì mẹ chị Tú
đã vui vẻ tán thành và nhận lời từ lâu rồi, giờ chỉ còn chọn ngày lành tháng tốt
thôi. Vườn chôm chôm bên cù lao nhỏ giờ thì không còn ai thăm trừ mấy người bạn
hàng từ chợ qua, trên Trung Lương hay Sài Gòn xuống đôi ngày tới mùa. Cuối tuần,
Khánh về Vĩnh Long, vẫn thích thả bộ bên nhau trên những con đường cũ, chuyện
này chuyện nọ, nói nhiều lắm nhưng chưa hết những gì muốn nói nhứt là mơ ước của
ngày mai. Với người quen, bạn bè trong chợ tỉnh, Khánh không còn là cô Khánh
ngày xưa mà tiếng một tiếng hai, “bà Phó quận”.
Sáng thứ hai, sau khi đưa Khánh trở lên trường, trên đường xuống quận,
Nguyên ghé ngang cho ba mẹ Khánh biết, có thể anh về trễ, nên đừng chờ cơm vì sẽ
đi thăm một người bạn bên Vũng Liêm. Triệu, thằng bạn thân quen, từng ở truồng
tắm mưa chiều giữa chợ xã, ngày chưa được đi học, còn đứng ngoài rào, nhìn học
trò lớn nhỏ sắp hàng chào cờ hát quốc ca, thèm chảy nước miếng, dưới cây điệp
khẳng khiu trụi lá trong những ngày đầu Hạ, cùng học chung một lớp đệ nhất ở Gò
Dầu, rớt tú tài cùng năm, vào lính, giờ mang lon trung úy, đang làm việc ở chi
khu bên đó. Lái xe qua tới chợ Vũng Liêm, trời vừa quá giữa trưa, nắng hâm hấp
nóng như những ngày đầu Hạ dù bây giờ đang ngấp nghé cuối Thu, cũng giống như
bên Minh Đức, Vũng Liêm lên xuống cũng bấy nhiêu con đường, đất nhiều hơn đá. Chợ
không còn mấy ai qua lại, Nguyên bỏ xe tại một khoảng đất trống trước cửa chi
khu, hỏi người lính gác cổng tìm Triệu. Hai người kéo nhau ra cái quán ăn, cuối
dãy phố gạch đầu chợ, kiếm cơm trưa, tay bắt tay mừng, mặc tình kể lể chuyện đời
xuôi ngược, chuyện tình dở tình dang của ngày xưa “em tan trường về” và của bây
giờ “công hầu khanh tướng”rồi theo Triệu vào phòng làm việc trong chi khu, tiếp
tục chuyện xưa tích cũ và tạm dừng ở đoạn mẹ Nguyên đã mất. Trời nhá nhem chiều
từ lâu, Nguyên giựt mình lo ngại, giờ này đường không mấy an ninh, nhứt là khúc
giáp ranh hai quận Vũng Liêm – Cái Nhum, thường có du kích Việt Cộng mò ra lúc
tối trời, đấp mô gài mìn, đôi ba lần đụng nhau với lính Địa Phương quân, bỏ lại
vài ba xác. Vội vã về, Nguyên lái chạy vụt đi không buồn vẫy tay chào. Triệu đứng
bên người lính gác cổng nhìn theo, ngoài đường chính, chiếc xe jeep khuất mất
trong cái mù mờ của vài ba tia nắng chiều lẻ loi, lưa thưa xuống thấp còn sót lại.
Trời tối hẳn, đen một màu mù
mờ như bùn trên đám ruộng dài lấp xấp nước, sau mùa gặt, hai bên đường, Thiếu
Tá Thuận, Quận trưởng Minh Đức, ra lệnh một trung đội lính Địa Phương quân, dùng
xe cứu thương, có anh y tá trưởng bên bệnh viện quận theo, đưa Nguyên về tỉnh
vì vết thương nhiều chỗ và quá nặng. Chiếc xe jeep của Nguyên đã bị trúng mìn của
du kích Việt Cộng trên khúc đường, xế ngã ba Cái Nhum chừng vài cây số, vừa lúc
tiểu đội đi nằm đường đêm của chi khu tới. Toàn thân người của Nguyên, từ trên
ngực xuống tới chân, đâu đâu cũng thấy máu, Nguyên nằm bất động bên lề đường nhựa,
lõm chõm đá, cách bờ đê ruộng không xa. Nhân viên trực bệnh viện tỉnh, đẩy
Nguyên vào phòng cấp cứu, chai nước biển không kịp treo lên, nằm trên tay cô y
tá mặt mày hớt hãi.
Nguyên nằm đó, trên giường bệnh, cả đầu quấn kín băng cứu thương trắng,
mắt nhắm nghiền, hai bờ môi khô đầy kẻ nứt, vài ba vết máu đỏ bầm, lau sót, còn
dính ở gò má, có hơi thở nhưng dường như
không đủ bình thường và đứt quảng. Quá nửa khuya, anh chị Thảo vẫn còn ngồi
quanh giường, chị Thảo cứ khóc sướt mướt, nhìn gọi “Nguyên hỡi Nguyên ơi” trong
ánh đèn điện vàng như màu vàng của lá úa trời Thu. Trời gần sáng, người y tá tới
thay băng, Nguyên vẫn còn hôn mê, chị Thảo chạy vội vã ra bến xe đi Sài Gòn, nhờ
anh lơ quen chuyến đầu tiên, đưa lá thư tay báo tin cho Khánh trên đó, đếm tiền
công như tiền mua vé xe cho hai ghế ngồi, trao cho anh ta, hai bàn tay lạnh cóng,
rồi quày trở lại bệnh viện, kịp lúc anh Thảo vừa vào cùng với hai bác Tư Hậu. Tấm
khăn trắng đắp người không thấy một vết nhăn, chứng tỏ Nguyên không động đậy từ
đầu hôm tới bây giờ. Chị Thảo ôm bác gái òa lên khóc, bác gái cũng khóc theo
“con ơi, trời ơi”. Bác trai kéo cái ghế ngồi cạnh mép giường bệnh, đưa tay rưng
rưng xoa qua xoa lại trên đầu Nguyên, băng cứu thương vừa thay, lắc đầu chết lặng.
Khánh tức tưởi khóc nức nở, đau đớn, ngất xỉu trong tay chị Thảo, hai bác Tư Hậu, cùng một lượt, ôm chầm lấy con, rấm rứt khóc theo. Chồng chị Thảo đứng ở một góc phòng bệnh, ngậm ngùi chết trân, không nói được lời nào. Chị y tá chưa kịp lau rửa vết thương trước khi hết phiên trực, Nguyên duỗi người lần cuối, rồi ngừng thở. Chuyến xe chiều về Vĩnh Long muộn đã không đủ nhanh hơn, cho Khánh được nghe Nguyên hẹn, thứ bảy này sẽ chờ đón cô đi qua vườn chôm chôm, xem bạn hàng giành nhau mua những chùm trái đầu mùa.
Gia đình hai bác Tư Hậu, sắp xếp với mẹ chị Tú đưa xác Nguyên về Trâm
Vàng, chôn nằm cạnh mẹ. Cũng như bà, đám tang Nguyên không mấy người đưa, cũng
không ngựa xe, không kèn trống. Chừng đó người, hai bác Tư, anh chị Thảo, mẹ
con chị Tú và Hiển, ngồi sụp quanh nấm mộ, Khánh ôm chầm lấy đất, rã rời không
còn nước mắt để mà khóc thêm nữa. Ở lưng chừng trời, những giọt nắng trăng trắng
chấp nối nhau như một dãy khăn tang, đong đưa như nhịp võng, giữa trời sắp về chiều, đâu đây loáng thoáng
có tiếng chuông lễ từ nhà thờ họ Bình Nguyên len theo chiều gió ngược về ngang
nghĩa địa như lần trước.
Thuyên
Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét