Thưởng thức bài thơ hay bằng chữ Hán"Tại Ngục Vịnh Thiền"
của Lạc Tân Vương (640-684)
(Nguyễn
Cang giới thiệu và trình bày)
Trong văn học sử kéo dài hơn 300 năm từ sơ Đường tới thịnh
Đường rồi vãng Đường, thịnh Đường là thời cực thịnh của văn chương Trung Hoa vì đã xuất hiện nhiều tác giả
với những bài thơ nổi tiếng cho tới ngày nay vẫn còn được nhắc nhở. Tuy vậy trong thời sơ Đường
cũng đã có nhiều nhà thơ khác nổi danh không kém. Lạc Tân Vương là một trong bốn
nhà thơ tiêu biểu, được thiên hạ xếp vào hàng Tứ kiệt: Vương Bột, Lư Chiếu Lân,
Dương Quỳnh và Lạc Tân Vương của thời bấy giờ.
Xin giới thiệu bài
thơ có tựa đề “Tại Ngục Vịnh Thiền, một bài thơ mang nét ẩn dụ đặc biệt bằng
cách tả “con ve sầu” để nói lên tâm sự mình của nhà thơ Lạc Tân Vương.
在獄詠蟬 (Tác
giả: Lạc Tân Vưong 駱賓王)
Phiên âm: Tại
ngục vịnh thiền ( tác giả: Lạc Tân Vương)
1. 西陸蟬聲唱,
Tây lục thiền thanh xướng
2. 南冠客思深 Nam Quan khách tứ thâm
3. 不堪玄鬢影 Bất kham huyền mấn ảnh 4. 來對白頭吟 Lai đối bạch đầu ngâm
5. 露重飛難進 Lộ trùng phi nan tiến
6. 風多 響易沉 Phong đa hưởng dị trầm.
7. 無人信高潔,
Vô nhân tính cao khiết,
8. 誰為表予心 Thuỳ vị biểu dư tâm.
Xuất xứ: Năm 678 sau
Công Nguyên, Lạc Tân Vương đang làm Thị Ngự Sử Tràng An ( một chức quan nhỏ trong triều). Nhiều
lần vì câu chuyện văn chương mà sanh hiểu lầm đáng tiếc đối với Võ tắc Thiên
nên ông bị tống giam. Bài thơ được
làm trong lúc ông nằm trong ngục. Đêm đêm nghe nhiều âm thanh trong đó có tiếng ve sầu
buồn thảm, gây cảm xúc u hoài và ông đã mượn tiếng ve để nói lên nỗi lòng oan ức
của mình.
Giới thiệu tác giả: Lạc Tân Vương ở Nghĩa Ô thuộc U Châu tỉnh
Chiết Giang,Ông từng giữ chức vụ nhỏ ở Tràng An. Sau vì bất mãn với triều đình
nên ông theo phò Từ Kinh Nghiệp chống lại Võ Tắc Thiên. Cuộc binh biến thất bại
ông bị tù. Ra tù ông đi lang thang, không rõ tin tức , có người bảo ông đi
tu...
Chú thích từ ngữ:
vịnh: dùng thơ ca để
miêu tả.
thiền: con ve
tây lục: chỉ mùa
thu
Nam quan: chỉ miền
Nam ( ở đây là nước Sở)
bất kham: bất chấp
huyền mấn : cánh mỏng
con ve
lai: đến
bạch đầu: đầu bạc,
tuổi già .
Ý câu 4/ Ve đang gọi tôi, mà tôi bị giam thì làm gi bây giờ ? tác giả không sao cầm lòng cho được.
Câu 5/ Sương móc
khá đậm làm ướt cánh ve nên ve không cất cánh bay lên được.
Câu 6/ gió lớn quá
khiến tác giả không nghe được âm thanh bên ngoài cũng không còn nghe được tiếng
ve ngâm; chẳng khác nào nỗi khổ đau, oan
ức của tác giả phải chịu bấy lâu nay.
cao khiết:cao thượng
và thanh khiết.
ý câu 7/ tác giả và
ve đều có tính cao thượng và thanh khiết của người quân tử mà không ai hiểu
cho.
biểu: bộc lộ, bày tỏ.
ý câu 8/ ai là ngươi
bộc bach dùm nổi oan của ta nhỉ?
Dịch nghĩa:
Trong Ngục Ca Ngợi Tiếng Ve
1/ Trong tù, ngày thu, nghe tiếng ve kêu,
2/ khiến tù nhân thêm nhớ nhà
3/ Bất chấp cánh mỏng, ve vẫn đến gọi
4/ ta buồn vì đầu bạc (lại đang ở trong tù)
5/ sương nặng, cánh ướt,ve cất cánh không nổi
6/gió mạnh ,tiếng chìm mất khiến người tù không còn nghe được.
7/ta và ve vốn tính cao thượng và thanh khiết mà chẳng
ai tin.
8/ ai là ngươi bộc bạch hộ ta nhỉ?
Lời bình:
Lạc Tân Vương là người thích văn chương thơ phú, ông bắt đầu
làm thơ
ngay từ lúc còn nhỏ. Sở thích nầy luôn đeo đuổi ông suốt cuộc đời. Khi
lãnh chức vụ nhỏ tại Tràng An, sự nghiệp thơ văn của ông càng phát triển mạnh
mẻ, tạo điều kiện cho ông kết bạn với nhiều người trong chốn văn chương. Nhưng
tiếc thay ông quên mất một điều là mặc dầu "văn chương vô mệnh" nhưng
cũng có thể gây "hệ luỵ" đau buồn về sau. Ông thường đưa ra những ý kiến
phê bình về tình trạng bất công xã hội,
ông muốn đất nước hùng mạnh người dân được ấm no hạnh phúc. Những đề nghị của
ông không được Võ Hậu chấp thuận trái lại còn bị ghép vào tội khác, tống giam
vào ngục. Trong thời gian theo phò Từ Kính Nghiệp, Lạc Tân Vương có làm thay
cho chủ tướng mình một bài hịch rất nổi tiếng tựa là "Vị Từ Kính Nghiệp thảo
Vũ Chiếu hịch", trong đó ông tố cáo sự tàn ác và thối nát của triều đại
Vũ- Hậu, rồi nói đến sự cần thiết của một cuộc khởi binh. Nhân danh việc làm đại
nghĩa để chiêu dụ, đồng thời lấy thưởng phạt công minh để khích lệ. Văn phong thật
hùng hồn mỹ lệ lại đanh thép, hừng hực khí thế đấu tranh làm nức lòng quân sĩ.
Theo nhận xét
của thầy Trần Trọng San thì "Bài nầy được coi là một kiệt tác của thể văn
hịch. Cuối đời Đông Hán, Trần Lâm làm bài hịch vạch tội Tào Tháo rất nổi tiếng,
nhưng xét ra thì không bằng bài nầy."
Trong thơ văn
Việt Nam, thi hào Nguyễn Du cũng đã có lần luận bàn về “hệ luỵ của văn chương” khi ông đọc
phần còn lại của quyển "Độc Tiểu Thanh Ký" (讀小青記). Ông không cầm được
xúc động khi biết được câu chuyện tình đầy thương đau của nàng Tiểu Thanh ở Tây
Hồ, Hàn Châu, TrungQuốc. Tiểu Thanh là
một người con gái tài sắc, tư chất thông minh, học hành giỏi giang. Ngay từ nhỏ
nàng đã thông hiểu đầy đủ các môn nghệ thuật: cầm kỳ thi hoạ. Năm 16 tuổi, nàng
được gã làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử con nhà gia thế. Tiểu Thanh rất thích văn chương thơ phú, Tiếc rằng nàng
làm vợ lẻ, bị vợ cả đánh ghen, hành hạ
khi khám phá ra tài thơ văn của nàng. Những
câu thơ bằng lời yêu đương nồng cháy đối
với chồng làm bà vợ cả ghen tức. Chính Tây Hồ là nơi bà vợ cả đày Tiểu Thanh sống trong cô đơn quạnh quẻ cho tới chết. Trong cuốn
"Độc Tiểu Thanh ký" còn sót lại hơn một chục bài khi tập thơ bị vợ cả
đem đốt. Nguyễn Du xem sách mà chạnh lòng, thương cảm cho thân phận của nàng Tiểu
Thanh, ông liên tưởng đến chuyện đời 300 năm về
sau, biết còn có ai khóc cho ông như ông đã khóc cho nàng Tiểu Thanh hôm
nay không? (Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)
[ Nguyên văn chữ
Hán:
讀小青記
西湖花苑盡成墟
獨吊窗前一紙書
脂粉有神憐死後
文章無命累焚餘
古今恨事天難問
風韻奇冤我自居
不知三百餘年後
天下何人泣素如
. Phiên âm
Hán – Việt : Độc Tiểu
Thanh kí:
Tây
hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc
điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi
phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn
chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ
kim hận sự thiên nan vấn,
Phong
vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.]
Qua phân tích ta thấy hai người: Lạc Tân
Vương và Tiểu Thanh củng yêu thích văn chương, nhưng cách thể hiện tài năng nhằm
mục đích khác nhau và "hệ luỵ" sau cùng của hai người lại giống nhau,
một chết một bị tù.
Trở lại bài thơ "Tại Ngục Vịnh Thiền" của Lạc
Tân Vương. Đây là bài thơ ngũ ngôn bát cú Đường luật, luật trắc, vần trắc, gồm 8 câu, mỗi câu 5 chữ đã gói trọn
tâm tư tình cảm của tác giả. Vần được gieo ở cuối các câu 2,4,6,8 (thâm, ngâm, trầm, tâm).
*Đề (câu 1&2 )
1. 西陸蟬聲唱
Tây lục thiền thanh xướng
2. 南冠客思深 Nam Quan khách tứ thâm
Mở bài tác giả giới thiệu một một
nhân vật đặc biệt: người tù.
Bối cảnh: thời gian mùa Thu cho ta biết cảnh
vật u buồn, lá vàng rụng bên song cửa, sao mà hiu hắt! Bên ngoài có tiếng ve ngâm
tha thiết, nức nở như
cứa miết vào không gian làm tăng thêm nỗi sầu của người tù bất hạnh.
Nỗi nhớ nhà sao mà nhức nhối : nào
vợ nào con , nào bạn bè thân thiết không biết bây giờ ra sao? Cảm giác mất mát
nầy không ai hiểu nổi bằng chính người tù.
*Thực ( câu 3&4):
3. 不堪玄鬢影 Bất
kham huyền mấn ảnh
4. 來對白頭吟 Lai đối bạch đầu ngâm
Trong một phút bất chợt, người tù cảm nhận được tiếng
kêu nghe lớn hẳn và ve kia đang bay lại
gần để chuyện trò, tâm sự với người tù. Tâm trạng lạ lùng nầy chứng tỏ người tù
còn nuôi một chút hy vọng, cái hy vọng tuy mong manh lại có giá trị như một an
ủi vô biên. Ở đây tác giả đã dùng phép nhân cách hoá để ve sầu biết suy nghĩ,
nói năng, tâm sự với người tù. Âm thanh bên ngoài, tiếng ve kêu hay bất cứ tiếng
động nào cũng được người tù chú ý để biết chuyện gì đang xảy ra, biết một thế
giới thực mà người tù cần có như một
sinh vật cần không khí để thở. Nguồn sống nhỏ nhoi đó lại là một nguồn kích
thích cho sự tồn tại của
con người ở thế gian nầy.
* Luận (câu 5&6) :
5. 露重飛難進 Lộ trùng phi nan tiến
6. 風多響易沉 Phong đa hưởng dị trầm.
Nhưng
hỡi ôi! Người tù tưởng được nói chuyện với chú ve kia nào ngờ giờ đây tuổi già
sức yếu biết còn sống được bao lâu? Nguồn hy vọng chợt tắt khi ngoài trời sương
lạnh xuống thấp, tuyết phủ đầy trên cành cây ngọn cỏ, khiến cho ve bị ướt cánh
không bay lên được, còn người tù thì vì
gió quá to nên không nghe được âm thanh
bên ngoài cũng như tiếng nói của chính mình. Đêm càng khuya sương lạnh càng xuống nhiều, chú ve sầu mệt
mỏi, cánh ướt nặng trịch, nó bám chặt vào nhánh cây sồi trơ lá, cất lên tiếng kêu rè rè như tắt nghẽn , như đứt hơi. Người ta có cảm tưởng như đó là tiếng dế, tiếng côn trùng chớ không phải là tiếng ngâm râm ran, tha
thiết, ảo não của con ve sầu vào những buổi trưa hè thanh vắng. Đó cũng chính
là hình ảnh của tác giả mượn xác ve để nói lên nỗi bất hạnh và sự bất lực của
mình.
Về mặt nghệ thuật, tác giả sử dụng phép ẩn dụ kết hợp với nhân cách hoá con ve như một người có ý thức
biết đối thoại và thông cảm nỗi đau của tha nhân. Tác giả tự cho mình và ve có
những đức tính cao thượng, thanh khiết của người quân tử mong người đời thấu
hiểu, và cũng mong bà Võ Hậu tha tội để ông về sống bình lặng với gia đình. Nhưng thương thay! Lời nói của ông như nước chảy qua cầu để rồi sau cùng ông kêu lên
trong tuyệt vọng: Ai người bộc bạch cho
ta bây giờ?
Kết (câu 7&8):
7. 無人信高潔,
Vô nhân /tính cao khiết, (2/3)
8. 誰為表予心 Thuỳ vị/ biểu dư tâm. (2/3)
Tiếng "Thuỳ" đặt ở đầu
câu, đóng vai trò một nghi vấn đại danh từ. Ai? Người nào? Tác giả khéo dùng để
diễn tả một tiếng kêu khẩn thiết, âm thanh như đứt đoạn làm chạnh lòng trắc ẩn,
xót thương cho kẻ bị hàm oan. Thơ ngắt nhịp điều đặn 2/3, diễn tả nỗi thất
vọng, sầu thảm kéo dài, đồng thời cũng nói lên khát vọng tư do của người tù,
mong mỏi thiết tha được giải oan để sớm trở về xum họp với gia đình và người
thân. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc những bất hạnh của tác giả và sẵn
sàng chia xẻ niềm đau.
Bài thơ khép lại nhưng nỗi buồn còn đọng
trong tim. Tác giả diễn đạt thật mạch lạc, xúc tích, hàm chứa nỗi oan khiên bất
tận, biết đến bao giờ mới được giải toả? Bài thơ theo bút pháp truyền thống của
lối thơ cổ điển Trung Quốc thời Sơ Đường nhưng ngôn ngữ được sử dung một cách
khéo léo để mô tả tình huống và tâm trạng có thật của người tù, gây xúc động
mạnh mẽ cho người đọc.
Dịch bằng thơ:
Trong ngục vịnh ve sầu
( người dịch:
Nguyễn Khuê)
Thu đến ve vang tiếng,
Người tù ý thiết tha.
Cánh đen* kham chẳng nỗi,
Đầu bạc tới ngâm nga.
Sương nặng bay xa khó;
Gió nhiều tiếng thoảng qua.
Ai tin chuyên cao khiết,
Mà lòng tỏ hộ ta.
Chú thích: Từ "huyền mấn"
thầy Nguyễn Khuê dịch là "cánh đen", theo suy nghĩ của tôi thì thầy
dịch theo nghĩa đen, dựa
vào phép đối trong câu 3 và 4 của bài thơ ngũ ngôn bát cú
Đường luật, "huyền" đối với "bạch"( tức
"đen" đối với "trắng") rất chỉnh, nhưng khi dịch ra âm
tiếng Việt thì nghĩa không hay. Theo thiển ý của tôi có lẽ nên dịch theo nghĩa bóng "cánh
mỏng" như nhiều tác giả khác thì nghĩa rõ hơn.
Tham khảo: "huyền mấn": mũ
cánh mỏng. Theo Yên Hoa ký: Cung nhân nước Nguỵ chế mũ cánh mỏng như cánh ve
sầu.
Nguyễn Cang
**********
Bài Cảm Tác
Bài Cảm Tác
Trong Ngục Ca Ngợi Tiếng Ve
***
Thân tù tội, nhìn tường cao bao bọc
Thu đến ve kêu, chạnh nỗi nhớ nhả
Khúc nhạc u buồn làm bạn cùng ta
Tủi nhục đớn đau, thân già lao lý…
*
Cánh mỏng ve sầu chìm trong sương gió
Tiếng ca tản mát vào chốn không gian
Lời trần tình thanh khiết đâu ai màng
Tin ở người tù cùng ve cao thượng…
Vkp Đạm Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét