Đọc Bài Theo Sóng Đời Lao Xao
Nguyễn Cang
Trong hơn 10
bài thơ của Thuyên Huy mà tôi có thì giờ đọc, bài nào cũng thấy hay (cảm nhận riêng). Cái hay của nó không phải do lời thơ bóng bẩy chải chuốt cũng không phải do cách gieo vần. Một trong những bài tôi rất vừa
ý của riêng mình là bài Theo Sóng Đời Lao Xao. Xin được mạo muội
ghi lại một vài cảm nhận khi đọc nó để mời các bạn, nhất là những người bạn còn
yêu thơ, thưởng thức.
Theo Sóng Đời Lao Xao
Từ những ngày mưa nhiều không nắng
Một nửa dòng sông một nửa buồn
Cầu xưa gãy nhịp mênh mông vắng
Còn ai đó không cho nhớ nhung
Nghe đâu đây phút chinh phu tiễn
Réo rắt chùng dây bản nguyệt cầm
Mất nhau theo tháng ngày chinh chiến
Trong đời còn mấy buổi trăm năm
Kiếm cung cũng làm thân tráng sĩ
Trống chiêng ư đâu khúc quân hành
Gói đời trong lưng chừng trang sử
Ai công hầu mà tướng với khanh
Bỗng chợt buông xuôi thành bại tướng
Về trông lá úa phủ thành xưa
Hồn rã buồn bay đi trăm hướng
Lạnh sóng đời theo gió trở
mùa
Buồn trốn sông xưa đò qua vội
Có ai cho hẹn buổi bạc đầu
Trọn một kiếp người trong dong ruỗi
Cuối đời viên đá cuội lao xao
Thuyên
Huy
Theo Sóng Đời Lao Xao một bài thơ thất ngôn phá
thể, có 5 khổ mỗi khổ 4 câu mỗi câu 7 chữ, mang nặng tình tự dân tộc quê hương,
được Thuyên Huy viết trong bối cảnh lúc
trở về chốn xưa. Biến cố lịch sử 1975,
đánh dấu một giai đoạn đổi đời đầy sóng gió. Xã hội biến đổi một cách sâu sắc với
nhiều cảnh ngang trái ngược đời, thế
thái nhân tình đảo lộn. Tiếp theo là cảnh
vượt biên, vượt biển đầy cam go thử
thách và hiểm nguy kéo dài hơn 10 năm. Người ra đi thì cầu Trời cho thuyền thuận
buồm xuôi gió để tới nơi an toàn, kẻ ở lại thì khẩn Phật cho thân nhân chóng biên thư về báo tin vui: được
tàu ngoại quốc cứu thoát, chờ ngày định cư sang nước thứ ba. Ngoài những hiểm
nguy gặp phải trên đường, họ còn bỏ lại sau lưng tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn
mà bao đời cần cù lao động mới có. Ai cũng nghĩ một lần ra đi là ngàn đời
vĩnh biệt nên bấm bụng để người thân ra đi, vậy mà chuyện không ai ngờ lại xẩy
ra như một phép mầu. Hơn 10 năm sau những người vượt biên năm nào lại trở về
như một đứa con thân yêu đi chơi xa, nay trở về cố quận. Trong một lần ra tỉnh
lỵ Tây Ninh để mua hạt giống, (giữa năm 1979) Thuyên Huy dừng lại bên nầy CẦU QUAN, đưa
mắt nhìn về phía bên kia khu phố chợ mà ngậm ngùi thương tiếc cho cảnh vật đổi
sao dời. Còn đâu những ngày thơ ấu tuổi học trò, ngày ngày cấp sách đến trường, vui đùa cùng bè bạn. Đứng trước con
sông kỷ niệm, tác giả có cảm tưởng như đang đứng ở một vùng đất xa lạ! Tâm trạng
buồn xa vắng, nhớ mong chẳng khác chi nỗi lòng của Trần Tế Xương hồi đầu thế kỷ
thứ trước, khi ông nằm ngủ trong nhà gần sông Vị
Hoàng (ở làng Vị Xuyên, quê hương TTX) bị lấp, đêm khuya giật mình thức giâc khi
nghe tiếng ếch kêu mà tưởng như tiếng ai
gọi đò văng vẵng bên kia sông vọng lại làm ông nhớ bến đò cũ con sông xưa (đã bị lấp) vô cùng. Đâu rồi những buổi trưa hè ra tắm sông cùng bạn
hay xúc tép, bắt cá? Hoặc hẹn hò cùng ai đó bên bờ sông? Bài thơ vỏn vẹn chỉ có
4 câu, nhưng chứa đựng tình cảm sâu sắc, ngoài tình yêu quê hương còn có tình
yêu nước thiết tha.
Sông Lấp Nam Định
Sông
kia rày đã lên đồng,
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai,
Đêm nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi
đò.
Từ ngữ Theo Sóng Đời Lao Xao mô tả đúng mức tình trạng xã hội VN nhiễu nhương thời
bấy giờ. "Sóng đời" chỉ cuộc đời
nhiều sóng gió, không bằng phẳng
như dòng nước trôi xuôi, trái lại nó nhấp nhô bập bềnh như có sóng vỗ, một cuộc
sống đầy cam go, tranh giành để có miếng ăn cái mặc. Trong cảnh lao xao đó Thuyên Huy cũng liều để bản thân mình trôi theo sóng đời may rủi, bấp bênh.
Dòng sông, kỷ niệm, dòng đời là ba yếu tố được sử dụng
trong thơ văn, để gợi lại những kỷ niệm
buồn vui trong quá khứ mà nay nhắc lại như một món ăn tinh thần đầy dấu yêu gợi
cảm. Từ những ngày mưa nhiều không nắng, tức những ngày buồn bã kéo dài không
thấy ánh nắng vàng rực rỡ cũng như dòng sông
kia nó chỉ có một nửa vui một nửa buồn. Tất cả như có gì trở ngại khiến cuộc đời không êm xuôi, nên
lòng người ray rứt, lo lắng, bâng khuâng
không biết mai nầy đời mình sẽ ra sao? Thuyên Huy nhìn cảnh đời đổi thay, chạnh lòng nghĩ tới cây cầu xưa,
cũng tại nơi nầy, bị gãy một nhịp nằm trơ ra đó chẳng ai thương xót đoái hoài,
sự mênh mông hoang vắng khiến tác giả cất tiếng than "còn ai cho ta nhớ thương bây giờ?" Tâm trạng nầy sao mà trầm buồn, tha thiết!
Từ những ngày mưa nhiều không nắng
Một nửa dòng sông một nửa buồn
Cầu xưa gãy nhịp mênh mông vắng
Còn ai đó không cho nhớ nhung
Về mặt nghệ thuật sáng tác thơ văn, ta nhận thấy Thuyên Huy đã sử dụng
biện pháp tu từ một cách nhuần nhuyễn, tác giả xây dựng được sự liên hệ chặt chẽ và sinh động bằng cách so sánh giữa dòng
sông và cuộc đời, giữa mưa nắng với niềm vui hạnh phúc hay nỗi bất hạnh. Cây cầu
gãy nhịp chẳng khác gì sự sụp đỗ của miền Nam. Biện pháp tu từ mang tính ẩn dụ
vừa có tính cách so sánh khiến người đọc phải suy nghĩ nhiều và cảm thấy thích
thú để thưởng thức một bài thơ hay.
Những kỷ niệm bên
chiếc cầu không những được nhiều thi nhân lấy làm đề tài sáng tác mà các nghệ sỹ
cũng mượn hình ảnh nầy để sáng tác nhiều bản nhạc nổi tiếng, bây giờ nhắc lại
mà cảm thấy ngậm ngùi thương tiếc cho chiếc cầu xưa ghi dấu biết bao kỷ niệm:
chiếc cầu đã đẹp mà lòng người càng đẹp hơn: họ biết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dưng đất nước. Chiếc cầu vừa làm phương tiện sanh sống vừa
nối nhịp tình thương giữa hai nơi, bên nầy sông và bên kia sông. Hằng ngày người
qua kẻ lại tấp nập, có cả những chiếc áo dài trắng lất phất bay nhẹ trong nắng
ban trưa của buổi tan trường. Mời các bạn thưởng thức lại một đoạn ca khúc Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy (chú thích: Cầu Trường Tiền ở Huế trước
75) của Trầm Tử Thiêng:
Từng đoàn
người dệt tương lai đi nắng về trưa
Dập dìu trong tay chan chứa tình thương
Cầu êm bóng xa xa nắng tre rập đường
Áo trắng về trắng cầu quê hương
Mỗi lần chiều tan trường
Cầu quen đưa bao chuyến xe
Nhiều khi vẫn nghe buồn vui tràn trề
Âm thầm người đi, người về, trót ghi lời thề
ngoài miền sơn khê .
Dập dìu trong tay chan chứa tình thương
Cầu êm bóng xa xa nắng tre rập đường
Áo trắng về trắng cầu quê hương
Mỗi lần chiều tan trường
Cầu quen đưa bao chuyến xe
Nhiều khi vẫn nghe buồn vui tràn trề
Âm thầm người đi, người về, trót ghi lời thề
ngoài miền sơn khê .
Cảnh vật thay đổỉ thật nhiều. Nhìn dòng sông mà nhớ cảnh cũ. Ngày xưa dầu chiến tranh sôi động nhưng cuộc sống vẫn thấy bình an no ấm. Làm trai trong thời chiến khi tới tuổi quân dịch ai ai cũng xếp bút nghiên theo việc đao cung. Người vợ, người yêu, tiễn chồng tiễn bạn lên đường bằng khúc nhạc biệt ly, tiếng đàn nguyệt cầm nghe sao réo rắt buồn ảo não, càng lúc càng rời rạc, đứt đoạn, uất nghẹn, dây tơ chùng xuống tự bao giờ. Chinh chiến càng lâu thì sự mất mát càng nhiều. Em hỏi anh bao giờ trở lại? Anh nói rằng mai một anh về. Lời nói như một an ủi chứ anh nào biết ngày sau sẽ ra sao? Có khi anh về bằng đôi nạng gỗ hay bằng hòm gỗ cài hoa. Tác giả than nho nhỏ "trong đời còn mấy buổi trăm năm?" Còn ai để mà đợi mà chờ?
Nghe đâu đây phút chinh phu tiễn
Réo rắt chùn dây bản nguyệt cầm
Mất
nhau theo tháng ngày chinh chiến
Trong đời còn mấy buổi trăm năm
Cuộc tiễn đưa nào cũng buồn, nhứt là cuộc chia tay thời chinh chiến. Trong văn học sử đời Đường, thi sĩ Vương Duy có làm một bài thơ nổi tiếng, biểu hiện một cách tập trung sâu sắc của sự tiễn đưa, trong một thời gian dài bài thơ trở thành ca khúc tiễn đưa được nhiều người ưa chuộng.
Vị Thành
triêu vũ ấp khinh trần,
Khách
xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến
quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
(Vị Thành khúc/ Vương Duy)
[ Mưa mai thấm bụi Vị Thành,
Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời.
Khuyên anh hãy cạn chén mời,
Dương quan ra khỏi ai người cố tri.]
(Người dịch: Tương Như)
Đây là cuộc chia tay giữa hal người bạn nơi quán trọ ở Thành Vị, thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Trong cảnh ban mai có mưa sương nhẹ, phơn phớt trên cành liễu xanh. Người ở lại tiễn người đi bằng cốc rượu nồng. Một khi bạn ra khỏi Dương Quan thì coi như không còn ai là tri âm nữa. Thật ít có tình bạn cao quý như vầy.
Trong thời chiến có kẻ làm anh hùng xả thân cho tổ quốc, quyết
tử, lấy da ngựa bọc thây, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng nay đâu còn nữa
khúc quân hành, khi mà cuộc chiến đã tàn, lịch sử đã sang trang. Câu chuyện ai anh hùng, ai khanh tướng, ai là giặc, xin
để lịch sử phán xét. Giờ đây Thuyên Huy không màng tranh luận, đánh giá, kể công với ai
hết:
Kiếm cung cũng làm thân tráng sĩ
Trống chiêng ư đâu khúc quân hành
Gói đời trong lưng chừng trang sử
Ai công hầu mà tướng với khanh
Câu "Gói đời trong lưng chừng trang sử" ở đây mang một ý nghĩa đặc biệt, nguyên ngữ của từ "gói" có nghĩa là bọc kín một vật bằng giấy hay vải, còn "gói đời" thì hơi lạ, nhưng ta có thể hiểu được đó là đem những đổi thay lớn lao viết vào trang sử để lưu lại cho đời sau. Đây cũng là một nét sáng tạo khác của tác giả trong việc sử dụng thi ngữ. Còn "trong lưng chừng trang sử" cũng có ý mới, ta có thể hiểu "vì trang sử còn bỏ dở nên tạm thời "chép" vào đó (ẩn ngữ) để mai sau lịch sử sẽ xét lại và đánh giá một cách khách quan, đúng mức, sự đổi thay nầy.
Xét tiếp
câu"Ai công hầu mà tướng với khanh." Người ta thường nói "công hầu
khanh tướng," dạng rút gọn câu văn nhưng ý nghĩa vẫn cô đọng, mô tả được những chức vụ quan trọng trong tổ chức
chánh quyền thời phong kiến. Ở đây tác giả dùng kỹ thuật đảo ngữ và đan xen những
từ ngữ thông dụng để kéo dài lời nói cho phù hợp với tiết tấu và âm điệu câu
thơ. Xen kẻ giữa "hầu" và "tướng" là hư từ "mà";
giữa "tướng" với "khanh" lại xen bởi hư từ "với." Đây là những nét khá đặc biệt
trong việc sử dụng thi ngữ, làm tăng thêm sự chú ý của độc giả đồng thời tránh được sự nhàm chán trong thi điệu thơ
văn. Mặt khác tác giả đưa nghi vấn đại danh từ "ai" lên đầu câu, mang
ý nghĩa "ai đó," "người nào" để nhấn mạnh câu hỏi, gây quan
tâm cho người đọc, để họ tham gia trả lời câu hỏi như đó chính là chuyện của
mình .
Nhìn lại cuộc chiến vừa qua , tác giả giật
mình bàng hoàng ngơ ngác, tự hỏi tại sao
với một lực lượng trang bị hùng hậu, thiện chiến, chưa đánh đã bỏ thành đầu
hàng? Còn đâu là danh dự là huynh đệ chi
binh? Nay, thành quách ngày xưa đã trở
nên hoang phế, dây leo mọc phủ lên tường, không còn nhận ra thành cũ, hào xưa nữa. Hồn tử sĩ cũng bay đi trăm hướng, có hồn lạc lõng bơ vơ trong bụi cây hay bờ suối. Tất cả đã trở thành
ký ức đau thương, ngậm ngùi khôn xiết. Cuộc
đổi đời đã làm thay đổi hẳn nếp sống, người ta chạy đua theo lối sống mới, bỏ
rơi nếp sống cũ.
Bỗng chợt buông xuôi thành bại tướng
Về trông lá úa phủ thành xưa
Hồn rã buồn bay đi trăm hướng
Lạnh sóng đời theo gió trở mùa
Chiều dần tàn! Còn ai trên phố vắng? Không gặp ai quen. Bạn bè cũ giờ đâu tá? Tâm sự hoài cổ nầy đã được Bà Huyện Thanh Quan diễn tả một cách sinh đông qua bài thơ Thăng Long Hoài Cổ, khiến người đọc ngậm ngùi luyến tiếc cho cảnh cũ nay không còn, chỉ có đồi núi đá cuội là y nguyên.
…. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn
cau mặt với tang thương
Nghìn năm
kim cổ soi gương cũ
Cảnh đấy
người đây luống đoạn trường.
Thuyên Huy không thể đứng mãi nơi đây, thôi thì về vậy, nhưng sao lại vội vã? Đò ngang còn một chuyến chót? Xuống thuyền rồi mà lòng còn băn khoăn, khách tự hỏi: còn ai cho cuộc hẹn nữa khi đầu đã bạc? Bản thân tác giả thì đã dong ruỗi gần suốt cuộc đời mà chẳng thấy đâu là chỗ dừng chân, bến đậu. Nó như viên đá cuội lao xao trong chậu hay là những viên đá lót đường cho người dẫm chân ?
Buồn trốn sông xưa đò qua vội
Có ai cho hẹn buổi bạc đầu
Trọn một kiếp người trong dong ruỗi
Cuối đời viên đá cuội lao xao
Nói về tiết tấu bài thơ là nói đến nhịp điệu. Trong âm nhạc có nhịp điều 2, 3, 4 thì trong thơ cũng có tiết tấu y như vậy. Thơ tự do có lối tiết tấu (còn gọi là ngắt nhịp) bất chợt thì gọi là biến tấu. Trong bài Theo Sóng Đời Lao Xao Thuyên Huy ngắt câu theo nhịp:3/4; 4/3; 4/3; 3/4 (cho khổ đầu) và 3/4; 4/3; 4/3; 2/3/2 (cho khổ hai), những khổ còn lại cũng tương tự như vậy. Điều nầy cho ta thấy tác giả đã thay đổi nhịp điệu ngắt câu cho phù hợp với tình tiết mỗi dòng tâm sự mà nhanh hay chậm. Thử lấy hai câu chót trong khổ hai:
Mất nhau
theo tháng/ ngày chinh chiến (4/3)
Trong đời/
còn mấy buổi/ trăm năm
(2/3/2)
Câu đầu nhịp bình thường 4/3: buồn vì mất mát gia tăng theo
ngày tháng. Câu 2: nhịp 2/3/2 lời than thở ngậm ngùi, thổn thức, uất nghẹn. Cách
ngắt nhịp làm bài thơ có tiết tấu nhịp nhàng và biến đổi phong cách điệu thơ.
Sự biến tấu cũng làm
người đọc chú ý và tránh được sự đơn điệu nhàm chán.
Bàn về
nghệ thuật sáng tác thơ văn là cả một vấn đề rộng lớn, có người suốt đời chỉ
làm được vài bài mà trở nên nổi tiếng. Một bài thơ hay không thể sơ suất trong
viêc chọn chữ, đặt câu, nhưng mấy ai không sơ suất? Có khi thay một chữ mà bài
thơ trở nên khởi sắc, nhưng nếu chọn chữ không khéo thì có thể làm hại cả
bài thơ. Tôi suy nghĩ thật lâu mới đưa
ra "đề nghị" cùng Thuyên Huy, thay thế một số chữ trong bài. Hãy xem chữ cuối khổ một: "Còn ai đó không cho nhớ
nhung." Đề nghị thay "nhớ nhung" bằng "nhớ thương"
cho lãng mạn thêm một chút, mang tính tích
cực, còn chữ "nhớ nhung" nghĩa
tổng quát, chung chung, không gây được ấn
tượng sâu sắc khi, một mình đứng bên bờ sông, mơ về kỷ niệm cũ, như có người
thân, bạn bè và cả "người
thương" nữa. Và sau đây là một số vấn đề còn tồn đọng trong suy nghĩ:
*Câu cuối
khổ 2: "Trong đời còn mấy buổi trăm năm." Tôi không hiểu tại sao
"còn mấy buổi trăm năm? Còn giải thích một cách miễn cưỡng thì: trong đời
còn mấy buổi hẹn hò để bàn tính chuyện trăm năm? Hoặc: trong đời còn mấy ai sống
tới tuổi trăm năm. Người ta thường nói "buổi hẹn hò" chớ không nói
"buổi trăm năm." Hay đây là trường hợp hoán dụ đặc biệt, đồng nhất những
ngữ nghĩa gần nhau, để giải quyết vấn đề âm, vần trong thơ? Đề nghị sửa: Trong đời còn mấy tuổi trăm năm? cho dễ hiểu.
* Câu đầu khổ 3:
"Kiếm cung cũng làm thân tráng sĩ." Chữ "cũng" nghe có vẻ yếu. Đồng nghĩa với nó là "đã", "từng." Tôi chọn "từng"
cho nghĩa mạnh hơn (Kiếm cung từng làm
thân tráng sĩ) .
*Câu đầu khổ
5: "Buồn trốn sông xưa đò qua vội." Tôi thắc mắc, tại sao dùng chữ
"trốn" chỗ nầy? Buồn cỡ nào cũng đâu đến nỗi phải trốn? Vậy thì hãy
thay thế nó bằng chữ "bỏ", vừa hay vừa tượng hình (Buồn bỏ sông xưa
đò qua vội).
*Câu 2 khổ 5:
"Có ai cho hẹn buổi bạc đầu?" Chữ "buổi" không rõ nghĩa lắm, tôi suy ra thì câu nầy ý nói: có ai
chịu cho một cuộc hẹn hò lúc tuổi già ? Nếu sửa lại: "có ai cho hẹn tuổi bạc
đầu" thì nghĩa rõ hơn .
Tôi đề nghị như vậy với suy nghĩ chủ quan có thể đúng
có thể không.
Những bài thơ gợi lại kỷ niệm thời xa xưa bên
dòng sông, chiếc cầu, được nhiều người lấy làm nền để sáng tác những vần thơ đầy gợi cảm, thu hút sự
chú ý của người đọc. Đề tài tuy cũ nhưng với nghệ thuật sáng tác khác nhau của
mỗi người mà thơ văn của họ vẫn để lại
trong lòng người đọc sự cảm nhận sâu xa. Thơ Thuyên Huy chứa đựng nhiều ẩn dụ và ẩn ngữ lại thêm ảnh hưởng cấu tứ thơ Đường khiến bài thơ có âm hưởng riêng làm
vừa lòng người đọc khó tính. Trong cấu tứ thơ Đường, nhà thơ không bao giờ nói
trực tiếp hết ý mình, họ chỉ gợi mối quan hệ (tương quan, nhân quả) để tự người
đọc luận ra ý tác giả; người ta thường gọi là "ý tại ngôn ngoại" (ý
ngoài lời). Một đặc điểm khác nữa của Đường thi là họ thường đồng nhất cảnh và
tình. Nhưng ở đây Thuyên Huy mượn ý của Đường
thi, không tả cảnh mà chỉ gợi cảnh để cảnh sinh tình (gợi cảnh: cầu gãy nhịp,
mưa nhiều không nắng, kiếm cung, tráng sĩ... để từ đó người đọc nhớ tới kỷ niệm
cũ, thời chinh chiến xưa, bạn bè xưa). Trong mỗi con người của chúng ta hình
như ai cũng có sẵn kỷ niệm về chiếc cầu,
dòng sông, bến đò, nên mỗi khi có ai nhắc tới là ta bùi ngùi xúc động. Thuyên Huy đã
làm công việc gợi nhớ bằng những vần thơ thật sinh động giúp ta tìm lại
được một vùng trời ký ức đầy mộng mơ.
Nguyễn Cang
Nguyễn Cang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét