Lăng Tẩm Huế Một Kỳ Quan
Phan Thuận An
Là
người Huế hay du khách gần xa khi đến viếng Cố Đô, ai mà lại không một lần đi
thăm lăng tẩm. Nhưng có lẽ không mấy người hiểu thấu chủ đề tư tưởng và giá trị
thẩm mỹ của các đấng quân vương khi cho tạo dựng chốn an giấc ngàn thu của
mình. Có thể nói lăng tẩm của các vị vua nhà Nguyễn là những “cõi đi về” bên
kia thế giới nhưng lại hiện hữu ngay giữa chôn trần gian.
Chúng
ta hãy thử cùng tìm hiểu những giá trị tư tưởng và nghệ thuật do cổ nhân để lại
nơi các di sản đặc sắc này.
Triều
Nguyễn (1802-1945), triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, đã để
lại cho dân tộc một di sản văn hóa đồ sộ mang giá trị quốc gia và quốc tế,
trong đó có hệ thống lăng tẩm của các vua ở miền Núi Ngự sông Hương.
Ngay
vào đầu thập niên 1910, một người tây phương Ph. Eberhardt đã viết: “Huế là một trung tâm du lịch hấp dẫn, nơi
có Kinh thành, Hoàng thành và lăng tẩm có một sức cuốn hút sự chú ý đặc biệt
của du khách và các nhà mỹ thuật. Chỉ riêng lăng tẩm các vua nhà Nguyễn không
thôi cũng đã đủ có giá trị với cuộc du lịch rồi, theo ý kiến chung, lăng tẩm
Huế đẹp hơn lăng tẩm các vua nhà Minh ở Trung Quốc.”
Mãi
đến ngày nay, ý kiến chung của những nhà làm công tác về văn hóa nghệ thuật
trong nước và trên thế giới cũng khẳng định rằng lăng tẩm Huế là một thành tựu
rực rỡ nhất của nền kiến trúc cổ Việt Nam.
Triều
Nguyễn có đến 13 Vua, nhưng vì những lý do lịch sử phức tạp khác nhau, nên hiện
nay Huế chỉ có 7 khu lăng tẩm. Đó là các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu trị,
Tự Đức, Dục Đức, (ở đây còn có mộ hai vua Thành Thái và Duy Tân), Đồng Khánh và
Khải Định. Theo ý đồ quy hoạch kiến trúc Kinh đô nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX,
7 khu lăng ấy nằm trong một vùng khá riêng biệt ở phía Tây Kinh Thành Huế, nhìn
từ vị thế trung tâm của Cố Đô. Nhiều thể hiện trên di vật cho thấy vua là đấng
chí tôn được biểu trưng bằng hình ảnh mặt trời cao cả. Và hình ảnh mặt trời lặn
biểu thị khái niệm vua thăng hà. Khi đã thăng hà, vua cùng mặt trời đi về phía
tây để an giấc ngàn thu nơi vùng đồi núi tĩnh mịch. Ở góc trời yên ả đó có
giòng sông Hương êm đềm thơ mộng chảy qua.
Theo
quan niệm “tức vị trị lăng,” phần lớn các lăng tẩm đều được xây dựng khi nhà
vua còn ở trên ngai vàng. Hầu hết nhân lực, vật lực của nhà nước và năng lực
của chính nhà vua nữa đều được đổ ra trong nhiều năm để thực hiện. Chủ đề tư
tưởng nghệ thuật do nhà vua đưa ra, đồ án kiến trúc do vua duyệt khán và chính
nhà vua cũng thường đi giám sát thi công.
Điều
mà các nhà kiến trúc dưới thời nhà Nguyễn phải tuân thủ triệt để trước tiên là
nguyên tắc phong thủy (feng shui). Đó là phần việc chuyên môn của các quan ở bộ
Lễ, ở Khâm Thiên Giám và một vài cơ quan khác. Âm phần của các vua có phát hay
không, hậu vận hoàng tộc tốt hay xấu đều do sự lựa chọn cuộc đất “Vạn niên cát
địa” do việc đặt phương hướng và coi ngày khởi công xây dựng. Lăng tẩm nào cũng
phải theo đúng các quy luật liên quan đến các thực thể địa lý tự nhiên, như
sông núi, ao hồ, khe suối, và nhất là “Huyền cung” ở trung tâm điểm của mặt
bằng kiến trúc phải tọa lạc đúng long mạch. Các thầy địa giỏi nhất bấy giờ phải
bỏ ra hàng tháng nếu không nói là hàng năm, đi khắp vùng núi đồi Tây và Tây Tây Nam Kinh Thành để chọn ra một địa cuộc hội đủ các nguyên tắc sơn triều thủy tụ,
tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ, huyền thủy minh đường... Dù lý thuyết phong
thủy cổ xưa ấy được nhận định, đánh giá như thế nào, hệ quả của nó cũng đã tạo
ra được cho kiến trúc Huế nói chung và lăng tẩm Huế nói riêng những ngoại cảnh
thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng.
Đi
tham quan, nghiên cứu lăng tẩm Huế, không nên chỉ chú mục vào các công trình
kiến trúc gần gủi trước mắt trong phạm vi vòng la thành diện tích hơn chục "ha" mà phải phóng tầm mắt ra xa cả chục km để thấy hết thực thể địa lý tự
nhiên gắn liền với nó và thưởng thức được vẻ hoành tráng của cả tổng thể rộng
hằng trăm hàng nghìn "ha" mà lăng tẩm có ảnh hưởng về mặt nghệ thuật. Ít ai nghĩ
rằng vùng lăng Gia Long rộng tới 2.875 ha và có 42 ngọn núi chầu vào trung tâm
điểm là mộ địa. Vùng lăng Thiệu Trị là 475 ha, có ngọn núi đứng làm tiền án
cách xa lăng đến 8km. Trước mặt lăng Khải Định là dòng khe Châu Ê chảy khuất
khúc từ trái sang phải rồi rẽ lại theo thế “chi huyền thủy,” và hai bên là hai
dãy núi Chóp Vung và Kim Sơn nằm trong tư thế rồng chầu hổ phục.
Hầu
hết các ngọn núi đồi, khe suối, sông hồ, cây cỏ ở miền cận sơn xứ Huế đều đã
được tận dụng hoặc chỉnh trang, cải tạo để làm bối cảnh cho kiến trúc lăng tẩm.
Các nghệ nhân tài ba ngày trước đã khai thác không gian và thiên nhiên ngoại
cảnh một cách triệt để, đưa chúng vào trong kiến trúc một cách chủ động, bắt
chúng phải phục tùng ý định của tác giả công trình. Đông thời, nơi nào thien
nhiên thiếu sót thì họ uốn nắn lại, hoặc đưa kiến trúc vào để tạo nên một vẻ mỹ
quan thích đáng. “Không gian bên ngoài lồng vào không gian của kiến trúc, kéo
kiến trúc về với thiên nhiên, góp phần tổ chức lại không gian chung”(Từ Chi).
Trong
quyển “Nghệ thuật Viễn Đông” Jeannine Auboyer nhận xét rằng: người Việt Nam đã
biết lựa chọn những cảnh thiên nhiên xinh đẹp nhất để xây dựng những công trình
kiến trúc thờ phụng của mình. Điều này được chứng thực rõ ràng nhất qua nghệ
thuật kiến trúc lăng tẩm Huế. Nơi đây, công trình kiến trúc nào cũng nằm trên
một ngọn đồi cỏ non dưới rừng thông yên ả, ẩn mình sau những cây đại thọ cành
lá sum sê hay soi mình xuống mặt hồ trong xanh phẳng lặng. Và toàn cảnh được
bao phủ bởi một màu xanh tươi mát chan hòa.
Năm
1918, Phạm Quỳnh đã nhận xét trên tạp chí Nam Phong:
“Lăng đây là gồm cả màu giời, sắc nước, núi
cao, rừng rậm, gió thổi ngọn cây, suối reo hang đá... Lăng đây là bức cảnh
thiên nhiên tuyệt đẹp ghép thêm một bức cảnh nhân tạo tuyệt khéo. Lăng đây là
cái công nhân tô điểm cho sơn thủy... Không biết lấy nhời gì mà tả được cái cảm
lạ, êm đềm vô cùng... Không đâu cái công dựng đặt của người ta với cái vẻ thiên
nhiên của giời đất khéo điều hòa nhau bằng ở đây, cung điện đình tạ một màu một
sắc như núi non, như cây cỏ, tưởng cây cỏ ấy phải có đình tạ cung điện ấy mới
là xứng, mà cung điện ấy đình tạ ấy phải có núi non ấy mới là hợp vậy”.
Kiến
trúc cổ Việt Nam nói chung là kiến trúc phong cảnh, còn là kiến trúc cảnh quan
(architecture paysagée; landscape architecture). Nghệ thuật kiến trúc nầy đã
đạt đến đỉnh cao ở lăng tẩm Huế. Vào năm 1981, sau khi đến thăm Huế, ông tổng
giám đốc UNESCO bấy giờ là Amadou-Mahta-M’Bow đã viết: “ Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn... biểu hiện những biến tấu độc đáo trên
một chủ đề thống nhất. Mỗi cảnh quan, và mỗi lăng tẩm khơi dậy trong cảm xúc
của khách tham quan một âm vang đặc biệt. Lăng Gia Long giữa một khu vườn thiên
nhiên bao la, gợi lên một ấn tượng hùng tráng và thanh thản; lăng Minh Mạng đầy
vẻ trang nghiêm và lăng Tự Đức đem đến cho du khách một hồn êm thơ mộng”.
Vào
thăm lăng tẩm Huế, người ta có cảm giác như đi chơi ở các công viên mỹ lệ giữa
chốn núi rừng bao la, ở đó có thể nghe thấy được chim hót, hoa nở, suối cháy,
thông reo.
Nhưng,
trên đây mới chỉ là một mặt của vấn đề. Muốn lý giải để biết tại sao lại có
được nghệ thuật tạo hình tạo cảnh như vậy ở lăng tẩm các vua nhà Nguyễn, thiết
tưởng chung ta phải tìm hiểu quan niệm của họ về sự sống và cái chết, nghĩa là
triết lý sâu sắc về cuộc đời, ẩn tàng đằng sau những gì họ nhìn thấy được nơi
họ năm xuống. Ở đây, ngoài những hình tượng cụ thể mà mọi người thưởng thức
được bằng trực giác, còn có những cái trừu tượng và siêu nhiên cần phải vận
dụng đến tư duy mới có thể nhận thức và cảm thụ. Đó là tư tưởng xuất phát từ
nhân sinh quan của một thời lịch sử. Chúng ta phải đặt lăng tẩm Huế vào trong bối
cảnh lịch sử tư tưởng các thế kỷ trước của giới trí thức nói chung và các vua
nhà Nguyễn nói riêng.
Theo
tư duy truyền thống, họ cho rằng chết chưa phải là hết. Cho nên, lăng tẩm Huế
không chỉ là chốn mộ địa u buồn. Bố cục mặt bằng khu lăng tẩm nào cũng chia làm
hai phần chính: phần lăng và phần tẩm. Khu vực tẩm là nơi xây nhiều miếu, điện,
lầu, gác, đình, tạ... để nhà vua lúc còn sống thỉnh thoảng rời bỏ Hoàng cung
lên đây để tiêu khiển. Có thể xem khu vực tẩm như một hành cung hay hoàng cung
thứ hai của ông vua đang tại vị. Khu vực tẩm của vua Tự Đức chẳng hạn, có đến
mấy chục công trình kiến trúc lớn nhỏ để phục vụ cho sinh hoạt và giải trí của
nhà vua, trong đó có điện Hòa Khiêm, nơi vua ăn ngủ; tạ Xung Khiêm, tạ Dũ
Khiêm, những nơi vua ngồi câu cá, hóng mát, làm thơ, ngắm cảnh; hồ Lưu Khiêm nơi vua dạo thuyền hái hoa; có
Minh Khiêm Đường, nhà hát; Y Khiêm viện, Trì Khiêm viện, nơi tá túc của đám
cung nữ đi theo vua lên đó để chầu hầu... Nhưng sau khi vua thăng hà, tất cả
các công trình kiến trúc trong khu vực tẩm vẫn phải bảo lưu nguyên vẹn để thờ
phụng đấng quân vương. Xen như vua vẫn còn sống, đám phi tần trong hoàng cung
cũng phải lên đây ăn ở để khói hương, phụng vị “Tiên đế” vừa về thế giới bên
kia.
Như
vậy, sau khi nhà vua thăng hà, lăng và tẩm mới trở thành cõi sống của người đã
chết. Sinh phần vua Tự Đức từ khi bắt đầu xây dựng năm 1864 chỉ được gọi tên là
Khiêm Cung, mãi đến năm 1883, sau khi vua thăng hà, nó mới được phép gọi là
Khiêm Lăng.
Nhân
tố chi phối công việc phân chia ra hai khu vực trong quy hoạch mặt bằng lăng
tẩm Huế và tạo ra phong cách kiến trúc giàu tính nghệ thuật đã xuất phát từ
quan niệm “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) của tư tưởng Đông phương. Cổ nhân
cho rằng cuộc sống trong cõi trần ai chỉ là một cái gì tạm bợ, dù thọ được một
trăm năm cũng chóng qua như giấc mộng, vạn hữu đều vô thường, như thay đổi hình
trạng như đám phù vân.
Trong
“Cung oán ngâm khúc,” Nguyễn Gia Thiều đã viết:
-Kìa
thế cục như in giấc mộng,
Máy
huyền vi mở đóng khôn lường...
(câu 49, 50)
-Lò
cừ nung nấu sự đời,
Bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương
(câu 75, 76)
-
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng
con mắt dậy thấy mình tay không
(câu 83, 84)
Nguyễn
Công Trứ đã từng than thở trong bài “Vịnh nhân sinh”:
Ôi
nhân sinh là thế ấy!
Như
bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao,
Ba
mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa
tỉnh giấc nồi kê chưa chín!
Trong
bài “Uống rượu tiêu sầu,” Cao Bá Quát cũng có cùng quan niệm:
Ba
vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh
phù du trông thấy cũng nực cười...
Khoảng
trờt: cổ, kim, kim, cổ,
Mảnh hình hài: không, có, có, không.
Mảnh hình hài: không, có, có, không.
Nhân
sinh quan của Lão Trang cùng với tư tưởng
“sắc không” của nhà Phật đã quyện lại với nhau, rồi hòa nhập vào giai
đoạn “tiêu cực” trong sự hướng nội phản tỉnh rất thật tế lúc cuối đời của nhà
Nho để trở thành một tổng hợp tư tưởng tam giáo trong tâm thức của các vua nhà
Nguyễn. Vua Tự Đức chẳng hạn, ông đã từng nói lên quan niệm “sống gởi thác về”
qua bài thơ “Ngẫm sự đời” của chính nhà vua:
Sự
đời ngẫm nghĩ mà ghê,
Sống
gởi rồi ra lại thác về.
Khôn
dại cùng chung ba thước đất.
Giàu
sang chưa chín một nồi kê.
Tranh
giành trước mắt, mây tan tác.
Đày
đọa sau thân núi nặng nề,
Muốn
hỏi tiên tiên chẳng bảo,
Gượng
làm chút nữa để mà nghe.
Tư
tưởng Nho, Thích, Lão trong con người của vua Tự Đức đã bộc rõ ràng và đầy đủ
qua bài thơ nôm ấy.
Như
vậy, mỗi lăng tẩm Huế còn có một hoàng cung của vua nhà Nguyễn ở thế giới bên
kia, nơi họ trở về để sống cuộc sông muôn thưở. Vì nhận định về cuộc sống và
cái chết như vậy, cho nên lúc sinh thời, khi còn tại vị, vua nào cũng nghĩ đến
việc xây dựng lăng tẩm cho mình.
Gần
đây, một nhà bình bút của Ủy ban UNESCO thuộc trung tâm Văn hóa Á Châu đã nhận
định một cách vắn tắt nhưng rất uyên thâm và chính xác về triết lý trong kiến
trúc lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn như sau:
“Với
cảnh thiên đường chóng qua trên dương thế, các lăng tẩm uy nghi đã được xây
dựng để làm chốn thiên đường vĩnh cửu mai sau.”
Kiến
trúc lăng tẩm Huế có ngôn ngữ riêng biệt với ý nghĩa sâu xa của nó. Có hiểu
thấu thì mới giải thích được tại sao chốn âm phần lại có cả hệ thống cung điện
để vui chơi hưởng thụ, có cả nhà hát để thưởng thức nghệ thuật sân khấu và sắc
đẹp của giai nhân, mới lý giải được tại sao phần nội thất cung Thiên Định ở
lăng Khải Định giống như một bảo tàng mỹ thuật
trông thật vui mắt, sống động, và mới biết tại sao khắp các lăng tẩm dều
trang trí rất nhiều hoa văn hình chữ “thọ” (nghĩa là sống lâu) và chữ “hỷ”
(nghĩa là vui mừng).
Kiến
trúc lăng tẩm Huế còn cho thấy một thái độ thanh thản không ngon đối với cái
chết tất nhiên phải đến với đời người. Lăng và tẩm chỉ gần nhau trong gang tấc.
Các vua đến vui chơi trong khu vực tẩm điện, nhìn qua các huyệt đào sẵn ở
khu vực lăng mà chẳng băn khoăn lo sợ, ngược lại họ vẫn sống tự tại, ung dung.
Thấu hiểu quy luật tự nhiên của đời người họ vui vẻ trước cái chết và sẵn sàng
chờ tử thần đến dẫn họ đi qua thế giới bên kia. Vì đó là ngôi nhà vĩnh cửu, nơi
an giấc ngàn thu, cõi trường sinh bất diệt. Do vậy, kiến trúc ở đây đã thể hiện
được một sự tổng hợp (synthèse) giữa đạo (Religion) với đời (profane), và trở
thành cõi sống của người đã chết. Kiến trúc giàu tính nghệ thuật ấy đã làm cho
nỗi tang tóc lắm khi phải nhường chỗ cho niềm vui.
Vào
thăm lăng tẩm Huế, người ta không hề gặp những hình tượng gây chết chóc, sợ
hãi, lạnh lùng như vào viếng “Minh thập tam lăng” ở Trung Quốc, người ta cũng
không thấy mình trở nên nhỏ bé, bị áp lực nặng nề và bị “dọa nạt” như khi đứng
trước những Kim Tự Tháp quá đồ sộ của các hoàng đế Ai Cập. Trong lăng tẩm Huế,
con người vẫn là chủ thể của kiến trúc và thiên nhiên. Ở đây người ta bắt gặp
những hình ảnh quen thân, gần gủi, có được cảm giác lâng lâng thích thú giữa
thật và mộng. Một du khách Tây Phương đã từng nói lăng tẩm Huế là nơi “tang tóc
mỉn cười và vui tươi thổn thất” (le deuil sourit et la joie soupire). Charles Patris trong một bài thơ
viết về lăng tẩm Huế cũng cho rằng: “...Ces rois d’Annam très sages
Qui
sont sourir la mort.”
Tạm
dịch:
Các
vua nhà Nguyễn khôn ngoan,
Làm
cho cái cảnh tang tóc biết cười.
Tóm
lại, nhờ có chủ thể tư tưởng bắt nguồn từ nhân sinh quan tổng hợp của các dòng
triết học Đông Phương và nhờ tài năng nghệ thuật tuyệt diệu của các nhà kiến
trúc Việt Nam đơng thời, lăng tẩm Huế đã trở thành những đóa hoa nghệ thuật đầy
hương sắc nở ra giữa chốn núi đồi xứ Huế và mang phong cách riêng biệt, độc đáo
so với các loại hình kiến trúc mộ táng trên hoàn cầu. Mỗi lăng tẩm Huế chẳng
những là một di tích lịch sử văn hóa mà còn là một thắng cảnh nữa. Kiến trúc ở
đây đậm nét tạo cảnh, tạo vườn. Cảm xúc trước vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa siêu
nhiên của lăng tẩm Huế, nhạc sĩ Tôn Thất Tiết đã soạn thành một bản nhạc nổi
tiếng trên thế giới, nhan đề là “những khu vườn của thế giới bên kia” (Les
jardin d’autre monde). Mỗi khu vườn nói đến ở đây là một khu lăng tẩm ở miền núi
Ngự sông Hương.
Vì
lăng tẩm Huế có được những giá trị nghệ thuật cao như thế, cho nên, ngay từ năm
1957, trong quyển “Les Merveilles du Monde” được viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp Jean
Cocteau đề tựa, một nhóm gồm 15 tác giả Tây phương đã xếp lăng tẩm các vua nhà
Nguyễn vào hàng kỳ quan của thế giới.
Các
lăng tẩm Huế có một chủ đề tư tưởng chung, nhưng lại mang những phong cách nghệ thuật riêng tùy theo sở thích, kể cả sở trường lẫn sở đoản của từng vị vua. Sự dị biệt ấy cũng có
thể nêu ra bằng những tính từ vắn gọn như sau:
-
Lăng Gia Long : hoành tráng.
-
Lăng Minh Mạng : thâm nghiêm.
-
Lăng Thiệu Trị : thanh thoát.
-
Lăng Tự Đức : thơ mộng.
-
Lăng Dục Đức : đơn giản.
-
Lăng Đồng Khánh : xinh xắn
-
Lăng Khải Định : tinh xảo.
Nếu
nắm được các tính cách chung và đặc điểm riêng ấy của hệ thống lăng tẩm Huế,
chúng ta sẽ dễ nhận thức về giá trị của từng đối tượng khi đến thăm viếng và
thưởng thức.
Phan Thuận An
Một Vài Hình Ảnh Các Lăng Tẩm ở Huế
Một Vài Hình Ảnh Các Lăng Tẩm ở Huế
2. Lăng Minh Mạng
3. Lăng Thiệu Trị
4. Lăng Tự Đức
5. Lăng Khải Định
( Nguồn Internet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét