Qua trận bệnh suýt chết vào mùa thu
năm 2004, bây giờ, ngoài cao huyết áp, mất một phần trí nhớ, tôi được chẩn đoán
thêm các vấn đề: tim nằm ngang, thận vôi hóa, gan nhiễm mỡ ...
Thôi thì đừng làm gì nữa. Ở nhà, chừa
râu, đóng vai cha, vai ông, vai cố trong gia đình.
Tôi ăn uống điều độ, đơn giản. Chiều
chiều, tôi tản bộ trên đường làng, bờ ruộng, hít thở không khí cho máu huyết
lưu thông, nhịp tim điều hoà, tầm mắt phóng xa. Tôi tránh những nơi đông người
vì dị ứng với sự ồn ào, dị ứng với khói thuốc lá. Tôi không dám đi đâu xa mà
phải ở lại đêm vì phương tiện và sức khỏe không cho phép.
Thế mà vào những ngày cuối năm 2010,
tôi phải làm một chuyến Nam
du.
Chuyện như thế này.
Một số bạn học khóa II Viện Hán Học
Huế ở tận miền Tây Nam Bộ tổ chức họp mặt 50 năm ngày nhập khóa. Anh chị em có
thiện cảm, nghĩ đến tôi, tha thiết mời tôi bằng điện thoại, bằng email, bằng
giấy mời qua đường bưu điện.
Tôi chần chừ, vừa ưa đi để thấy lại
mặt những bạn thân thương, vừa e sức khỏe không cho phép mình hoàn thành chuyến
đi. Tôi đã từng ngã bệnh đột ngột một lần ngủ xa nhà. Đó là đêm 03 rạng
04/8/2007; tôi từ thị xã Đông Hà vào thị xã Quảng Trị ở lại đêm chuẩn bị họp
mặt cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng từ các nơi về. Đang ngủ với thầy Nguyễn
Viết Trác, trưởng ban tổ chức, nửa đêm, tôi bị đau bụng tháo dạ. Thầy Trác phải
mất ngủ để chăm sóc.
Lần này, tôi cứ sợ đau ốm bất ngờ dọc
đường, như thế vừa khổ cho mình, vừa gây phiền hà cho người đồng hành, vừa làm
cho con cháu anh chị em ở nhà lo lắng. Lại thêm, dạo này, mấy cái răng còn sót
đang có vấn đề. Cái răng cấm trong cùng ở hàm trên lung lay, thỉnh thoảng cảm
thấy nhói buốt, hai cái răng cửa hàm dưới đang tê tê.
Các bạn trong ấy họp và giao nhiệm vụ
cho bạn Lý Văn Nghiên ra Đông Hà “bắt
thằng Hoàng Đằng vào đây cho được” (lời
của bạn Nguyễn Văn Đức). Vì sao Nghiên bị giao công việc “nặng nề” đó? Dù
sinh ra và trưởng thành ở thành phố Huế, Nghiên quê gốc ở tỉnh Quảng Trị nghĩa
là cùng quê với tôi.
Nghiên có điều kiện kinh tế dễ dàng,
con cái thành đạt, sức khỏe tốt, tấm lòng nghĩa hiệp, được trời ban cho biệt
tài tổ chức lễ hội, người bạn đời thông cảm khuyến khích, đặc biệt là giọng hát
trầm ấm, Nghiên nhúng tay vô việc gì, việc ấy vui thêm, mỹ lệ thêm. Từ
ngày về hưu đến giờ, Nghiên dùng tuổi già đi đây đi đó thăm bạn bè, đồng nghiệp
và môn sinh.
Nghiên mua sẵn vé máy bay cho tôi rất
lâu trước chuyến đi và nhắc nhở qua điện thoại:
-
Vé mua rồi thì không trả lại được đâu
nghen. Lo mà giữ gìn sức khỏe đó.
Nghiên còn mời được Phan Thuận An và
Hoàng Xuân Minh, hai bạn khóa đàn anh và Trần Khánh Tiếu, một bạn khóa đàn em.
Phan Thuận An đang bị di chứng nhẹ của cơn tai biến mạch máu não cách đây gần
hai năm, Hoàng Xuân Minh đang quản lý nhà hàng Ông Táo, một nhà hàng lớn và nổi
tiếng ở Huế; Trần Khánh Tiếu đang điều hành một khách sạn. Xem ra ai cũng có
vấn đề và bận việc, vậy mà họ quyết định đi, tại sao mình không. Nghiên và Tiếu
còn hứa “hộ tống” tôi trong suốt chuyến đi nữa mà!
Thời gian gần đây, tôi đang có nhiều
nỗi buồn về việc nhà và về việc cộng đồng. Tôi nghĩ: đây là cơ hội hiếm có vừa
xả “stress”, vừa gặp lại những người bạn cũ xa cách nhau đã 45 năm, vừa là dịp
quan sát phần phía Nam đất nước mình thay da đổi thịt như thế nào qua thời
gian.
Lâu lắm rồi tôi không đi xa, việc
chuẩn bị không đơn giản chút nào: mượn người giữ nhà, mượn cái túi xách, tìm
đôi giày ưng ý, xáo tìm quần áo, hỏi địa chỉ, số điện thoại của bà con, bạn bè.
Mệt nhất là đôi giày, lục tất cả các két carton trong xó kho, tôi thấy 3 đôi,
chiếc nào cũng bị mạng nhện và bụi bặm bám đầy, thế là giặt, phơi, đánh xi lại,
ngắm lui ngắm tới, chọn được một đôi tương đối chắc chắn nhưng démodé rồi; tuổi
thọ đã trên 20 năm. Thôi thì cũng đành bằng lòng, già rồi hơi sức đâu mà chạy
theo thời trang, đi mua đôi khác cũng mất “cả xứ” tiền.
Năm nay, dịp Giáng Sinh và vài ngày
trước đó, trời tạnh ráo, không lạnh. Sáng 26/12/2010, ngày lên đường, trời lại
mưa, sáng còn nhẹ hạt, trưa và chiều nặng hạt hơn, gió bấc thổi vù vù. Vậy là
hành lý phải nặng nề thêm, cồng kềnh thêm; rõ khổ! Cái áo mưa, hai cái áo ấm,
cái mũ trùm đầu ...
Con Hoàng Hữu Chiểu thồ ra bến xe cách
nhà khoảng 2 cây số, cái áo mưa căng trùm người và túi hành lý bị gió thổi bay,
mưa tạt vào người – lạnh.
Xe khởi hành từ Đông Hà lúc 14:30 giờ.
Ít hành khách đón dọc đường, chỗ ngồi tương đối thoải mái.
Xe đến Huế 16:15 giờ, thuê xe ôm về
nhà anh chị nuôi trong thời gian đi học ở cuối đường Đào Duy Từ. Ngôi nhà này
anh chị dọn về khoảng cuối năm 1972, trước đó anh chị ở cái nhà gần đó trong
hẽm xoay hướng ra hào đào quanh thành. Anh chị đã mất, nhà cắt chia cho các con
ở. Tôi dạy kèm bốn con của anh chị hồi học Hán học. Đó là Lê Việt, Lê Tùng, Lê
thị Thơm và Lê Sơn. Em lớn tuổi nhất là Lê Việt sinh năm 1951 đang học Luật thì
bị động viên và mất tích khi chiến tranh gần kết thúc. Lê Việt có vành tai vừa
rộng vừa dài, đáng lẽ em là người thọ,
vậy mà vắn số! Vợ chồng Lê Tùng buôn bán hàng bao bì khá giả, đã dựng được nhà
tầng và đang chu cấp cho 2 con vào Sài Gòn học đại học. Tôi vào, vợ chồng Tùng
cho người dọn phòng, sắp xếp chỗ ngủ cho tôi trên lầu.
Trời đang buổi chiều. Tôi qua ngồi nói
chuyện với vợ chồng Lê thị Thơm ở quán cà phê bên cạnh trong khuôn viên. Năm
1975, Thơm học xong Tú Tài thì đất nước thống nhất, Thơm vào ngành sư phạm, ra
dạy tiểu học tại một xã ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Gặp thời buổi kinh
tế khó khăn, quá thiếu đói, Thơm xin về mở quán bán cà-phê từ hồi đó đến giờ.
Trời mưa lắc rắc, tôi nhìn ra đường.
Ô! Nghiên đã đến trên chiếc mô-tô, trùm áo mưa kín người. Nghiên bảo tôi chuyển
hành lý lên xe mô-tô để Nghiên chở về nhà ngủ lại đêm, mai đi sớm cho tiện.
Trên đường, mặc dù hành lý cồng kềnh, Nghiên gợi ý muốn đãi tôi một bữa ăn đặc
biệt.
-
Đằng thích ăn gì? Bánh khoái nghen? Trời
này ăn bánh khoái thì tuyệt.
-
Mình chỉ muốn tí cơm nóng, tí canh nóng
hay tí đồ kho nóng. Bộ phận tiêu hóa mình yếu, mình muốn ăn ít và đơn sơ chừng
nào hay chừng ấy trong lúc đi đường. Tôi cho Nghiên biết cách ăn uống của
tôi.
-Ta chờ Đằng vào để anh em ăn cái gì cho đặc
biệt một tí và uống một vài chai cho ấm bụng, chứ cơm thì nói gì. Thôi ghé đây
ăn cao lầu mì. Mất hứng, Nghiên giải bày.
Thế là chúng tôi vào quán cao lầu ngay
bên trong cửa Đông Ba. Mỗi người một tô nóng hổi. Lâu rồi tôi không ăn cao lầu,
nay có dịp thưởng thức, tôi thấy cao lầu bây giờ hình như không ngon bằng cao
lầu ngày xưa ở các quán bên Gia Hội; bánh cao lâu hình như không thuần bột mì
mà có trộn bột sắn.
Trời đã lờ mờ tối, Nghiên chở tôi về
nhà. Nhà Nghiên nằm trong con hẽm phía sau lưng Tam Tòa, từ đường chính đi vào
khoảng vài chục mét. Cô Võ thị Lạc, phu nhân của Nghiên, chào hỏi tôi rất chân
thành. Phòng ngủ đầy đủ tiện nghi dành cho tôi trên gác đã dọn sẵn. Chưa vội
ngủ sớm, tôi cất hành lý xong, xuống phòng khách xem trên ti-vi trận bóng đá
chung kết lượt đi AFF CUP giữa Malaysia
và Indonesia – Trận này Malaysia thắng Indonesia 3/0. Cô Lạc đang dạy thêm
môn hóa học cho khoảng 10 em học sinh ở đằng kia phòng khách. Cô Võ thị Lạc tốt
nghiệp xuất sắc đại học sư phạm ban Lý Hóa khóa Nguyễn Khuyến (1969 ?). Cô dạy
ở trường Đồng Khánh, nay đã nghỉ hưu; ở nhà cô dạy thêm để giải khuây. Khi tôi
lên phòng ngủ, thì thấy trên bàn đọc sách sẵn dĩa bánh cốm, chai nước lọc và
thermos nước sôi. Đi xa mà được bạn lo từng ly từng tý, tôi cảm thấy hạnh phúc
vô cùng.
Dù chỗ ngủ rất tốt, yên lặng, khép
kín, thông thoáng, tôi vẫn ngủ không tròn giấc, có lẽ vì lạ chỗ và vì bị ám ảnh
bởi cái “lệnh” Nghiên đưa ra đầu hôm là phải dậy lúc 5 giờ.
5:15 giờ, tôi xách xắc xuống phòng
khách. Nơi bàn tiếp khách, đã sẵn bình trà mới pha và thẩu mứt gừng. Trời bên
ngoài mưa, Nghiên mang áo mưa ra ngoài mua bánh bao về điểm tâm.
6 giờ, xe taxi do Nghiên gọi đến đón.
Xe ghé qua đường Bạch Đằng, con đường chạy trước mặt chùa Diệu Đế, đón Trần
Khánh Tiếu và phu nhân. Mỗi lần anh chị em Hán học ở Huế họp mặt, Tiếu mời tôi
vào ở lại đây qua đêm, tiếc là tôi chưa có dịp thuận tiện. Xe chạy tiếp về phủ
thờ Công Chúa Ngọc Sơn đón Phan Thuận An ở góc đường Nguyễn Chí Thanh và đường
Chi Lăng. Quần thể phủ thờ gồm mấy cái nhà bằng gỗ, kiến trúc theo lối cổ, có
vườn rộng, trang điểm bằng cây cảnh, lối đi, non bộ, ao hồ rất đẹp. Cảnh trí ấy
tạo cho con người cảm giác thanh thoát, nhờ thế, Phan Thuận An có môi trường
nghiên cứu tốt và đã trở thành một nhà sử học và Huế học với những tác phẩm hấp
dẫn người đọc không những về phương diện khám phá sự kiện mà còn vê phương diện
bố cục chặt chẽ và văn từ hàn lâm. Lần đầu tiên nghe cách xưng hô hiếm gặp, tôi
đủ thấy nếp gia phong hoàng tộc. Phu nhân Phan Thuận An gọi anh là “cha”, anh
gọi phu nhân là “mạ”. Đáng lý xe còn đến đón Hoàng Xuân Minh, nhưng tới giờ
phút cuối (5:30 giờ sáng 27/12/2010), Hoàng Xuân Minh không đi nữa, nghe nói
sức khỏe không đủ cho một chuyến đi xa
khi mùa đông đang rét lạnh. Hoàng Xuân Minh có nhờ tôi gửi lời chào và cảm ơn
đến Ban Tổ Chức và tất cả anh chị em có mặt.
Xe đến phi trường Phú Bài lúc 7:30
giờ. Phú Bài nay đã là một sân bay quốc tế. Nhà ga lớn hơn nhiều so với 7 năm
trước đây lúc tôi thường đi Sài Gòn hay Hà Nội vì công việc. Phòng lập
thủ tục rộng, phòng đợi nằm trên tầng lầu, hình gấp khúc chữ V, rất dài.
8:30 giờ, chúng tôi ra máy bay. Tuy đi
vé giá rẻ, chúng tôi được bay bằng Boeing 737. Ngày trước, trên những chuyến
bay dù nội địa, số hành khách người Việt Nam
rất ít so với người nước ngoài, bây giờ hành khách người Việt Nam đã chiếm đa số. Thế đủ thấy
người Việt đã có mức sống cao. Một tiến bộ đáng mừng!
Máy bay cất cánh lúc 8:45 giờ, trèo
lên từ từ rồi vút trên khoảng không. Tôi nhìn xuống, một tầng mây nhấp nhô
trắng xóa ở dưới xa, như thử mình đang ở cảnh tiên. Âm thanh máy bay kêu “rù
rù”. Các tiếp viên lui tới bán nước uống. Hành khách khồng còn được phục vụ
nước uống và bữa ăn như ngày trước. Có lẽ do thời gian bay quá ít - chỉ hơn một
giờ đồng hồ.
10:10 giờ, máy bay đáp xuống sân bay
Tân Sơn Nhất. Nguyễn Đăng Vận, bạn khóa đàn em, từ Huế vào trước, cùng Hồ Tính
Tình và phu nhân thuê xe đến đón. Hồ Tính Tình là bạn cùng lớp với tôi nay có
tên là Hồ Thanh. Tình quê gốc ở làng Cổ Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị, nhưng sinh ra và trưởng thành ở Huế. Tình
học chưa trọn khóa thì thoát ly làm công tác Cách Mạng. Nghe đâu từng
giữ những chức vụ lớn trong ngành truyền thông – phát thanh truyền hình ở miền Nam .
Xe chạy qua thành phố Sài Gòn, thả
phu nhân của Trần Khánh Tiếu xuống ở lại thăm bà con. Ở thành phố Sài Gòn này,
đường nào cũng tấp nập, những đoàn xe cộ đủ loại nối đuôi nhau không dứt, nào
khác chi đàn kiến leo thân cây thoát thân khi lũ lụt về. Xe phải chạy chậm.
Trời nắng ấm.
Xe đến thành phố Mỹ Tho lúc 12:30 giờ,
mất đến 2 giờ trên đoạn đường chỉ trên dưới 70 cây số.
Xe ghé nhà Ngô Văn Tiên ở 50 Hùng
Vương. Tiên đang đưa Trần Văn Dật (từ Vĩnh Long qua), Nguyễn Bá Yên (từ Cần Thơ
lên) và Nguyễn Văn Đức (từ Long An xuống) đi ăn. Các bạn ấy đã chờ chúng tôi,
nhưng quá trưa, không chờ được – nghe nói Nguyễn Bá Yên đúng giờ không ăn là
bệnh. Phu nhân của Ngô Văn Tiên đang ngồi trên xe lăn, cho người phục vụ nước
uống.
Ngô Văn Tiên đang làm chủ một cửa hàng
bia rượu và nước giải khát, công việc rất bận rộn , da rám đen vì nắng, cái vẻ
bạch diện thư sinh ngày xưa không còn. Phu nhân của Tiên bị tai biến mạch máu
não đã hơn 4 năm nay, bây giờ, trí óc sáng suốt, có thể phụ giúp Tiên trong
việc kinh doanh nhưng di chuyển khó khăn. Chị bấm điện thoại gọi Tiên, chỉ mấy
phút sau, Tiên phóng mô-tô về, dẫn cả toán qua khách sạn ở bên kia đường, chếch
nhà Tiên một đoạn, nhận phòng, cất hành ly, rửa ráy mặt mày, chân tay rồi đi ăn
cơm. Bụng đói, đồ ăn và cơm vừa nóng vừa ngon, ai nấy ăn một bụng thật no - đi
lạch ạch.
Buổi chiều, Tiên dẫn ra xem chợ trái
cây. Đa số trái cây ở đây cũng giống như ở các chợ trên toàn quốc. Phương tiện
chuyên chở dễ dàng mà!
Điều đáng chú ý là loại dưa hấu thịt
vàng và loại khế to bằng cả hai bàn tay chụm lại. Loại dưa hấu này nghe nói đem
giống từ bên Đài Loan về; còn khế to là do đất đai màu mỡ, khí hậu thích hợp
với sự phát triển cây trái; thậm chí cây rau thơm cũng khác xa ngoài miền
Trung, miền Bắc; thân thì cao, lá thì to, màu xanh lè, trông thấy ớn!
Tối 27/12/2010, ăn trên một quán nổi
bên bờ sông Tiền, uống bia “đã” thôi, tiếc là tôi, vì lý do sức khỏe, phải uống
nước dừa. Dừa trồng nhiều ở các cồn giữa sông Tiền và chứa đầy đủ chất bỗ
dưỡng, vậy nên ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam (1909 – 1990) trong thời gian tu
hành dầm mưa dãi nắng chỉ ăn cơm dừa, uống nước dừa, lại còn vào tù ra tội mà
thọ đến 82 tuổi.
Sau bữa tối đó, một số anh em còn rủ
nhau đi nhậu nữa, khá khen cho các ông lão tuổi tác đã trên dưới 70 mà còn khỏe
ghê! Tôi và Phan Thuận An vào phòng, nằm nghỉ ngơi. Đêm 27/12/2010, tôi ngủ tại
khách sạn thật ngon.
Sáng 28/12, anh em rủ nhau ra uống cà
phê tại quán ở góc đường gần khách sạn. Tôi uống trà vì tim yếu, dị ứng với cà
phê. Mọi người điểm tâm bằng hủ tiếu ở một quán sát bên nhà Ngô Văn Tiên.
Giờ đón tiếp các bạn từ Sài Gòn và từ
các tỉnh lân cận đã đến. Anh em người trở lại ngồi ở quán cà phê hồi nãy, người
về đứng trước cổng khách sạn chờ.
Ôi chao là mừng! Những cái choàng ôm
theo kiểu các Tổng Thống, Chủ Tịch, Thủ Tướng dành cho những quốc khách đồng
chí diễn ra dồn dập. Bạn trai ôm bạn gái, bạn gái ôm bạn trai, quên cả lời dạy
của thánh hiền: “Nam
nữ thụ thụ bất thân” (Trai gái trao nhận cái gì không được gần sát nhau). Mà
trách chi. Tuổi trên dưới bảy mươi rồi, có sít nhau đi nữa là do hứng khởi của
tình thương chứ không phải do hứng khởi của tình dục. Cảm động là các bạn những
khóa đàn em đến khá đông. Điểm mặt khóa II: hơi buồn một chút. Đến giờ này, các
bạn khóa II, chỉ được 13 người: Lê Hoàng Nhi, Nguyễn Bá Yên, Trần Văn Dật,
Nguyễn Văn Đức, Ngô Văn Tiên, Phạm Văn Minh, Nguyễn thị Ngọc Sương, Bùi Quang
Xuân, Phan thị Ngân, Phan Đình Trừng, Hồ Tính Tình, Lý Văn Nghiên và Hoàng
Đằng. Những bạn quá xa xôi thì không nói làm gì, còn những bạn ở gần tại sao
không đến. Trần Văn Hùng đâu? Nguyễn thị Thuận An đâu? Huỳnh Quang Vinh đâu?
...
9 giờ ngày 28/12/2010, xe đưa tất cả
đến một phòng không rộng không hẹp ở một nhà hàng, được trang hoàng đơn sơ
nhưng đầy đủ ý nghĩa. Trong buổi hội ngộ, Ban Tổ Chức cử khá nhiều MC: Nguyễn
Văn Đức, Lý Văn Nghiên, Nguyễn Bá Yên, Phạm Văn Minh.
Anh Ngô Văn Tiên thay mặt BTT khai mạc
Đại sư huynh Phan Thuận An đang tâm tình
Anh Ngô Văn Tiên thay mặt BTT khai mạc
Đại sư huynh Phan Thuận An đang tâm tình
Phần thủ tục gồm tuyên bố lý do, phát biểu chào mừng, tặng hoa, tặng quà cho các bạn ở xa. Phan Thuận An được tiếp đón như một thượng khách. Anh được ban Tổ Chức tặng hoa và quà. Đáng lẽ thuê một cô gái “siêu mẫu”, mặt mày son phấn, jupe hở đùi, áo hở ngực bưng hoa trao thì, vì không có đủ tiền thuê, ban Tổ Chức giao việc ấy cho chị cả Nguyễn thị Ngọc Sương tóc đã bạc phơ, chỉ còn chút đáng yêu là nụ cười luôn rạng rỡ. Tôi và Trần Khánh Tiếu cũng được tặng quà: kẹo bánh đặc sản của miền Tây Nam Bộ. Chúng tôi còn có vinh dự được mời phát biểu. Mọi lời phát biểu có ý chung chung: giữa bằng hữu, “xa nhau thì nhớ mà gần nhau thì cười”.
Buổi họp mặt đang diễn ra thì Trần
Mạnh Liệu xách xắc bước vào. Liệu ở đâu tận Dầu Tiếng, Tây Ninh, khởi hành lúc
5 giờ sáng, về Sài Gòn rồi bắt xe buýt xuống đây. Nhờ vậy, số bạn khóa II tăng
lên con số 14, chứ không còn ở số xui xẻo 13.
Đến phần văn nghệ, Lý Văn Nghiên trổ
tài qua 2 bài hát “cây nhà lá vườn”: “Hương sắc Đà Lạt”, thơ & nhạc của
Phan Thuận An, “Tình khúc buồn”, thơ của Trần Văn Dật do Mai Trung Đỉnh phổ
nhạc. Hai bài đều là thơ nhạc tình; tình của Phan Thuận An rạo rực nhưng kín
đáo, kết thúc cuộc tình với một chút tiếc nuối, một nỗi buồn sâu lắng còn tình
của Trần Văn Dật thì ray rứt, khắc khoải, Dật muốn nhắn gửi đến ai đó – hình
như đang có mặt hôm nay – nỗi lòng thổn thức của Dật do quá yêu thương mà không
được cùng sống trên đời. Giọng hát của Nghiên khi thì trầm trầm, khi thì uất
nghẹn, lột tả được tâm trạng của các tác giả.
Rồi đến lượt các “nghệ sĩ đàn em, đàn
con, đàn cháu” của Lý Văn Nghiên. Nguyễn Bá Yên có giọng hát điêu luyện như
từng được đào tạo về thanh nhạc từ một nhạc viện nào đó tận bên Bình Nhưỡng,
Bắc Triều Tiên. Trần Khánh Tiếu có giọng hát bay bổng vút lên cao như máy bay
phản lực đã lên khỏi mây rồi mà còn muốn trèo nữa. Tôn Nữ Hiếu và Trần thị Minh
Quyết có giọng hát líu lo, nỉ non như
gió vi vu luồn qua phi lao, như tiếng chim vào buổi sáng lúc nắng mới lên. Tiếc
rằng hai cô đã xấp xỉ thất thập, quá tiêu chuẩn tuổi tác để tranh giải Sao Mai
năm 2011! Phan Đình Trừng biểu diễn nhiều bài hát mà ngày xưa cha Thích tập;
hình như Trừng không thuộc bài hát nào một cách trọn vẹn, nhưng vốn có tính
thích vui nhộn, bạn giữ micro rất lâu. Tôi cũng “nổi máu”, nghêu ngao 2 bài:
“Anh muốn sống bên em trọn đời” của Nguyễn Cường, tôi thích bài hát này vì diễn
tả đúng tâm trạng của tôi và “Ngày xưa Hoàng thị”, thơ của Phạm Thiên Thư do
Phạm Duy phổ nhạc, tôi muốn dành bài hát này tặng cho người bạn của tôi ngày
xưa lắm bồ nhiều bịch. Dù hát dở ẹc, tôi thích múa mồm khi đông người tập họp.
Thời đi học, tôi rụt rè, ít nói, nhưng từ ngày công tác cộng đồng theo các dự
án của những tổ chức phi chính phủ, tôi máy miệng, thích nói chuyện hoang,
chuyện tục và thích ca hát.
Buổi họp mặt kết thúc với một bữa ăn
thịnh soạn. Món cá tai tượng chiên xù trông ngộ nghĩnh. Nhà hàng khéo bố trí
dựng đứng con cá trong dĩa như thử con cá còn đang bơi .
Lão Gàn Hoàng Đằng đang tâm sự
Lão Gàn Hoàng Đằng đang tâm sự
Anh thợ ảnh chụp lấy liền làm việc lia lịa. Tôi bận bộ đồ quốc phục: quần trắng, áo dài đen, khăn đóng. Thấy tôi khác người, các nhóm kéo tôi vô và dành cho tôi vị trí ăn ảnh nhất. Xin nói về chuyện tôi đem bộ quốc phục theo. Ngày xưa, tại viện Hán Học, các thầy khoa bảng phần lớn trên 70, đi dạy thường mang quốc phục, đặc biệt là cụ Ngô Đình Nhuận và cụ Hà Ngại. Tôi muốn tái hiện hình ảnh kính yêu của các cụ để gợi dậy kỷ niệm trong tâm trí các bạn.
Sau bữa ăn, một số bạn, vì việc riêng,
từ giã, trong đó, có Phan Đình Trừng khóa II; phu nhân của Trừng đang nằm viện.
Chiều 28/12/2010, các bạn Phạm Văn Minh, Ngô
Văn Tiên, Nguyễn Văn Đức hướng dẫn thăm 3 địa điểm du lịch ở Mỹ Tho.
Đầu tiên, thăm khu lưu niệm nơi diễn
ra trận đánh tan liên quân Xiêm – Nguyễn Ánh ở Rạch Gầm – Xoài Mút vào đêm 18
rạng ngày 19/01/1785 (08 rạng 09 tháng chạp năm Giáp Thìn). Đó là trận đánh lớn
thắng ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Nguyên do đưa đến trận đánh là như thế
này: Trước thế lực của quân Tây Sơn, vị chúa còn sót lại của xứ Đàng Trong là
Nguyễn Ánh sai Châu Văn Tiếp qua Thái Lan cầu viện. Vua Thái Lan đang có tham
vọng chiếm cả Cambodia và vùng Nam Bộ, nên đồng ý, cử quân thủy bộ, kết hợp
thêm quân Cambodia vào miền Nam, cùng quân Nguyễn Ánh đẩy lùi quân Tây Sơn và
đóng đại bản doanh tại Trà Tân trong tỉnh Tiền Giang. Nguyễn Nhạc sai Nguyễn
Huệ đem quân vào đánh trả. Nguyễn Huệ cho lực lượng thủy bộ mai phục ở Rạch Gầm
– Xoài Mút. Ngày 18/01/1785, quân Thái Lan cả thủy lẫn bộ rầm rộ tấn công.
Khuya 19/01/1785, đoàn chiến thuyền quân Thái Lan lọt vào trận địa mai phục của
quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ phát lệnh khai hỏa. Chiến thuyền Tây Sơn từ rạch Xoài
Mút, rạch Gầm, từ những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi giữa sông Tiền
kéo ra đánh chận đầu, một đoàn chiến thuyền khác của Tây Sơn núp sau cù lao
Thới Sơn (giữa sông Tiền), xông ra đánh thọc vào hông đoàn chiến thuyền Thái
Lan, chia cắt đội hình và chận đường tháo lui. Cùng lúc ấy, những chiếc thuyền
nhẹ của Tây Sơn chở vật liệu dễ cháy đâm vào những chiến thuyền Thái Lan đang
rối loạn rồi phóng hỏa. Chiến thuyềnThái Lan một số bị cháy, một số bị chìm.
Sáng 19/01/1785, trận đánh kết thúc, quân Thái Lan tan rã, các tướng chỉ huy
trốn xuống Sa Đéc, chạy bộ qua Cambodia để về Thái Lan; còn tàn quân Nguyễn Ánh
tan tác, rút xuống Hà Tiên, ra biển tìm đường qua Thái Lan nương náu mưu sinh,
sau đó, cầu viện nước Pháp. Khu lưu niệm trận đánh này khá rộng, có tượng đài,
có nhà bảo tàng và có cả một ngôi nhà cổ bằng gỗ kiến trúc theo kiểu Nam Bộ,
cũng kiểu nhà rường, nhưng đường lận cong của kèo không đẹp như nhà ở Quảng
Trị.
Tiếp theo, chúng tôi được dẫn đi thăm
trại rắn Đồng Tâm, ở huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Trại này đặt trên căn
cứ Đồng Tâm của quân đội Mỹ trong thời chiến tranh, còn có tên là Trung Tâm
Nuôi Trồng Nghiên Cứu Dược Liệu Quân Khu 9 . Trại có 3 nhiệm vụ: nuôi rắn lấy
nọc bào chế thuốc và xuất khẩu, trồng cây dược liệu, cấp cứu và điều trị rắn
độc cắn. Gần cổng vào, các quầy hàng bán đủ các loại rượu ngâm rắn, các dược
phẩm chế biến từ rắn, ở khu bên trong, hai bên lối đi là những lồng, những
chuồng nuôi rắn, và một vài loại chim, loại thú. Tiếc là ban ngày, rắn ngủ đâu
trong những hang nhân tạo, chúng tôi không thấy con nào ra ngoài hết. Trại cũng
có ao nuôi cá sấu, con nằm trên khô, con nằm dưới nước. Tất cả cá sấu chúng tôi
thấy được đều thuộc loại vừa, không to, không nhỏ.
Cuối cùng, chúng tôi đến thăm chùa
Vĩnh Tràng ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho. Chùa này do một người
sùng đạo xây dựng từ năm 1849. Qua thời gian, qua nhiều lần tu tạo, hiện nay
chùa là một công trình kiến trúc bề thế tổng hợp cả Á lẫn Âu (Pháp, La Mã,
Thái, Miên, Chàm); vật liệu gồm có gỗ và bê-tông cốt thép; nhiều họa hình trang
trí khảm gốm sứ qúy. Ở sân bên ngoài, có vài tượng Phật và những cây cảnh chăm
sóc chu đáo, rất đẹp, đặc biệt mấy cây mẫu đơn trồng trong chậu cắt xén hình
tròn nở hoa đỏ rực. Bên phải chùa, tượng Phật Di Lặc rất lớn dựng trên một bệ
bê-tông cốt thép rất vững chãi; tượng lớn có thể so sánh với tượng Phật phía
ngoài ngả ba Huế của thành phố Đà Nẵng. Trước bệ tượng, có hàng chữ Hán: ĐƯƠNG
LAI DI LẶC ĐẠI PHẬT, bên dưới có hàng chữ quốc ngữ: NAM MÔ ĐƯƠNG LAI DI LẶC TÔN
PHẬT. Vì biết chữ Hán, một số anh em thắc mắc tại sao chữ Hán là ĐẠI mà chữ
quốc ngữ lại TÔN; một số anh em khác lý luận - không biết đùa hay thật: người
ta đổi chữ để chứng tỏ Việt Nam
chỉ làm bạn với Trung Quốc chứ không lệ thuộc Trung Quốc.
Chương trình tham quan chiều hôm đó có
dự trù thăm Cầu Rạch Miễu bắt qua sông Tiền, nối thành phố Mỹ Tho với tỉnh Bến
Tre; nhưng trời đã hoàng hôn; phải nghỉ để đi ăn tối.
Bữa ăn tối 28/12/2010 diễn ra tại một
nhà hàng tương đối sang trọng. Mọi người ngồi vào hai hàng ghế đặt hai bên một
dãy bàn sắp dọc. Có trên 30 người. Đồ uống chỉ nước trà đá, dầu vậy, ai muốn
bia thì cứ gọi. Đồ ăn thì cơm, canh mướp đắng bọc chả cá, rau muống luộc, rau
muống xào, cá trê kho tộ, tôm rim với sườn heo. Tôi cũng ăn như mọi người,
nhiều hơn cũng không, ít hơn cũng không. Đầu tiên, tôi gắp một khúc mướp đắng
trong đó có một miếng chả cá. Tôi ăn miếng chả cá, vị giác thấy lạ, tôi cứ sợ
đó là thịt một loại gì đó. Hỏi mấy bạn nữ ngồi cạnh, tôi được cho biết: ấy là
thịt cá thát lát.
Sau bữa cơm này, cũng như tối hôm qua,
một số bạn đi nhậu nữa. Tôi và Phan Thuận An về phòng nằm nghỉ.
Đầu hôm, tôi đọc say sưa một số bài
trong đặc san “Lớp cũ – Trường xưa” do Nguyễn Bá Yên và một vài bạn thực hiện
vừa mới phát hành hồi trưa. Nhiều bài viết dí dỏm, hấp dẫn, nhiều tư liệu và
hình ảnh không biết nhóm thực hiện moi đâu mà ra, qúy thật, tài thật!
Giấc
ngủ không ngon, tay chân hơi uể oải. Khoảng 01 giờ sáng, cái bụng quặn, tôi đi
nhè nhẹ vào toilette – đi mạnh chân sợ Phan Thuận An mất giấc ngủ. Từ đó, cứ 2,
3 phút vào toilette một lần. Đến lần thứ tư, tôi thấy Phan Thuận An thức giấc,
mồ hôi tôi đổ ướt cả áo.
-Tôi bị nhiễm độc thức ăn hồi tối rồi, anh An
ơi! Tôi nói cho Phan Thuận An biết.
Phan Thuận An mở cửa phòng đi ra, đến
gõ cửa phòng có Trần Khánh Tiếu và Nguyễn Đăng Vận. Tiếu và Vận lên lầu, gõ cửa
phòng có Trần Văn Dật và Nguyễn Bá Yên. Dật lục hành lý lấy ra ba viên thuốc
con nhộng, giao Tiếu và Vận đem xuống, bảo tôi uống ngay 2 viên, còn 1 viên để
sáng mai uống. Trong khi các bạn đang loay hoay thuốc men thì tôi vào toilette
thêm 3 lần nữa, hai lần sau cùng, ngoài “đi”, tôi còn nôn mửa.
Tôi uống 2 viên thuốc Dật cho. Lên
giường nằm, trùm chăn kín người. Từ đó đến sáng, tôi hết “đi”. Sáng, các bạn
mua cho tôi một tô cháo, tôi chỉ húp nước và uống viên thuốc Dật cho còn lại.
Hôm nay, đoàn thuê thuyền đi tham quan
các cù lao trên sông Tiền, nghe đàn ca tài tử, và thưởng thức các loại trái cây
miệt vườn. Bùi Quang Xuân không đi, vào tạm biệt tôi rồi dùng xe máy trở về Sài
Gòn.
Tôi không đi tham quan được. Một thiệt
thòi lớn! Tôi ở nhà tìm cách điều trị làm sao hết “đi” để tính chuyện trở về
quê. Khoảng 8 giờ sáng 29/12/2010, sợ bị đuối sức, tôi ra đường mua một ổ mì
không, nhai nuốt. Ai ngờ mới vào phòng,
cơn bệnh của tôi trở lại, tôi “đi”, nhiều lần. Thấy nguy, tôi đi tìm phòng khám
bác sĩ. Chưa đến giờ bác sĩ khám tư. Tôi ghé một hiệu thuốc Tây, khai bệnh với
cô bán thuốc. Cô bán cho tôi 4 loại thuốc, mỗi loại 2 viên và dặn chia ra uống
2 lần. Uống xong lần thứ nhất, tôi ngừng “đi”.
Ngô Văn Tiên hôm nay không đi theo đoàn, ở nhà
chờ đến giờ đi dự đám cưới, thấy tôi, gọi tôi qua nhà ngồi chơi. Tôi nhớ lại
nước khoáng Vĩnh Hảo rất tốt cho bệnh tháo dạ, tôi xin Ngô Văn Tiên một chai
lớn, cứ vài phút, tôi uống vài hớp, cái bụng tôi cảm thấy đằm.
11 giờ 30, xe của đoàn trở lại khách
sạn đón tôi về Sài Gòn cùng. Lượt từ Mỹ Tho lên Sài Gòn này, xe dùng con đường
khác với con đường mà xe đã dùng hôm 27/12 để từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho.
Tôi từng nghe nói đất đai miền Nam
rộng, những cánh đồng cò bay thẳng cánh, song hôm nay trước mắt tôi không thấy
hiện tượng ấy, nhà cửa đã liền kề, làng này cách làng kia không bao nhiêu,
những cánh đồng lúa còn hẹp hơn những cánh đồng ở Quảng Trị, chỉ có điều đặc
biệt là trên cùng cánh đồng, ruộng có tấm lúa mới gặt, có tấm lúa mới trổ, có
tấm lúa mới gieo, có tấm đương làm đất. Lòng tôi dậy lên nỗi lo lắng “tào lao”:
Trong tương lai gần thôi, nước ta sẽ quá tải về dân số. Con cháu chúng ta sẽ ở
đâu? Lấy gì để ăn?
Trên đường, ở những giao lộ, để tránh
ùn tắt giao thông, tránh tai nạn, nhà nước đã cho xây những đường vượt trên
không. Trông nước ta cũng tiến bộ, hiện đại thật rồi!
Khoảng gần 2 giờ chiều, xe đến công
viên Lê Văn Tám ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, mọi người xuống xe tại đây.
Tôi cảm ơn những tình cảm mà anh chị em đã dành cho tôi và bắt tay tạm biệt mọi
người.
Tôi thuê xe ôm tìm về nhà 2 đứa cháu
con chú Hoàng Kế (em con bà cô tôi). Đang giờ làm việc ở công sở, hai cháu vắng
nhà. Bà nhà bên cạnh hỏi thăm niềm nỡ và bấm điện thoại gọi hai cháu về. Điều
đó cho thấy hai cháu biết ăn ở với hàng xóm. Đáng khen!
Hai cháu gái con thứ 8 và thứ 9 của
chú Kế vào đây học đại học. Tốt nghiệp, hai cháu kiếm được việc làm tốt và mua
nhà ở 22/9 Mai Văn Ngọc, phường 10 quận Phú Nhuận. Hai cháu tiếp đón và săn sóc
tôi rất tận tình và tuyệt vời: dọn phòng ngủ kín đáo đầy đủ tiện nghi, mua cháo
ngon và nóng cho tôi, mua vé máy bay giúp tôi.
Từ sáng đến giờ, tôi chỉ uống nước
khoáng Vĩnh Hảo trừ bữa. Giờ này, có cháo ngon, có nơi ở đáng tin cậy, tôi gắng
ăn gần cả bát, uống 4 viên thuốc mua hồi sáng còn lại; bụng êm, tôi ngủ một đêm
thật ngon, giấc ngủ thật sâu.
Sáng 30/12/2010, hai cháu định đưa tôi
đi ăn sáng ở một nhà hàng sang nào đó. Xe đã nổ máy, tôi đã leo lên ngồi ở phía
sau, nhưng tôi thấy trong hẽm nhiều người đang bán các món ăn điểm tâm; muốn
cháo có cháo, muốn bún có bún, muốn hủ tiếu có hủ tiếu, muốn cà phê có cà phê
... Tôi bảo cháu ăn gì đây cũng được vì đây có bán mà mình đi nơi khác thì mất
cảm tình xóm giềng; các cháu nghe lời và mua cho tôi một tô cháo bánh canh. Hai
cháu còn mua cho tôi nhiều kẹo bánh qúy đặc sản của Sài Gòn để đem về cho các
cháu nhỏ.
Cháu Thảo (con thứ 9 của chú Kế) chở
tôi ra sân bay. Nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất được làm lại, lớn rộng hơn trước
đây nhiều. Cháu Thảo thoăn thoăn tìm chỗ làm thủ tục, tiễn tôi vào phòng đợi
rồi bác cháu tạm biệt. Bây giờ, nhà nước mở thêm nhiều đường bay quốc nội từ
Sài Gòn đi nhiều tỉnh thành, thành thử, nhà làm thủ tục và nhà chờ ra máy bay
vừa rộng vừa dài. Hèn chi, hành khách phải đến trước ở sân bay hai giờ trước
khi máy bay cất cánh thay vì một giờ như trước đây. Không có cháu giúp, tôi
chắc phải vất vả nhiều vì người còn yếu sau trận đau bụng tháo dạ.
Thấy việc làm, dáng đi, cách sống của
hai cháu mà mừng, mà hãnh diện, con cháu nhà mình cũng đủ tài sức chen vai
thích cánh giữa chốn đô hội.
Chiếc Airbus 320 cất cánh lúc 10 giờ
và đáp xuống phi trường Phú Bài lúc 11:20 giờ. Một cô gái trên cùng chuyến bay
có thuê taxi về thị xã Quảng Trị mời tôi quá giang. Đến Quảng Trị, tôi thuê xe
ôm ra Đông Hà. Tôi đến nhà khoảng gần 3 giờ chiều.
Thế là tính từ lúc đi, tôi xa nhà 4
ngày đêm. Mừng là gặp được một số bạn học cũ, qua đó thấm thía được tình bạn
cao qúy. Mừng là thấy quê hương đổi mới qua thời gian. Tuy nhiên, tiếc là nhiều
dự tính chưa thành hiện thực.
Trong chuyến đi Mỹ Tho này, tất cả
những gì liên quan đến họp mặt khóa do một số bạn tài trợ. Họ giấu không cho
tôi biết cụ thể là những ai. Thôi qua ký sự này, tôi chỉ biết nói lời cảm ơn.
Ngoài Mỹ Tho, tôi còn chuẩn bị tài
chánh để đi vài nơi khác. Số tài chánh này gom đã từ lâu. Năm 2007, Lê Xuân
Hùng, đại diện cho một số cựu học sinh các trường ở Quảng Trị định cư ở Hoa Kỳ
về tặng tôi 100 USD. Khoảng tháng 11/2010, Đoàn Đức, cựu đồng nghiệp của tôi ở
trường Triệu Phong, Quảng Trị và trường Nguyễn Phúc Chu, Bình Tuy, từ Sài Gòn
về thăm quê, dúi vào túi tôi 1.000.000 VND. Ngày 12/12/2010, ông anh kết nghĩa
Nguyễn Văn Thị tặng tôi 500.000 VND. Trước ngày lên đường, con dâu út tôi tặng
tôi 3.000.000 VND. Với số tiền này, tôi định xong việc ở Mỹ Tho, sẽ đi Vĩnh
Long thăm gia đình Trần Văn Dật nhân tiện tham quan cầu Bắc Mỹ Thuận, đi Cần
Thơ thăm gia đình Nguyễn Bá Yên nhân tiện tham quan cầu Cần Thơ, tiếp theo lên
Sài Gòn thăm một số bà con bạn bè, đặc biệt xem việc học hành của đứa cháu gọi
bằng cậu là Phạm thị Mỹ Giang như thế nào, ra Vũng Tàu thăm con Nguyễn Hữu Ánh,
ra Hàm Tân thăm lại nơi ở năm 1974 – 1975, thắp hương cho chú Hoàng Thiện, bạn
Lê Văn Chính, nếu kịp, dự lễ mừng thọ 90 của thầy Lê Văn Qúyt tổ chức ngày
01/01/2011 và cuối cùng ra Phan Thiết thăm gia đình Hoàng Triêm, gia đình Hoàng
Triều, thắp hương cho o dượng Hoàng thị Đức – Hoàng Dự rồi trở về theo đường
bộ. Nào ngờ ‘lực bất tòng tâm”!
Thôi, cứ hy vọng sẽ đi một chuyến nữa
trước khi hình hài này trở vào lòng đất lạnh. Bao giờ, chưa nói được./.
Hoàng Đằng
05/01/2011
05/01/2011
(02/12/Canh
Dần)
Một vài hình ảnh ngày Hội Ngộ Kỷ Niệm 50 Năm của khóa 2 Viện Hán Học Huế
Một vài hình ảnh ngày Hội Ngộ Kỷ Niệm 50 Năm của khóa 2 Viện Hán Học Huế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét