Viễn Vọng Hữu Hoài & Hạc Quan Loạn Hậu
Trần Thiện Chánh , nhà gia thế , thi đậu làm quan cuối triều Nguyễn. Khi Đại Đồn Kỳ Hòa thất thủ, ông theo nghĩa Cần Vương , cùng Lê Huy tập hợp được 6000 nghĩa binh, ủng hộ tướng Trần Trí, lúc đó rút về Biên Hòa .
Hòa ước nhượng ba tỉnh, ông về miền Trung, sau thăng dần lên Kinh Kỳ Hiệp Lý Thủy Sư. Ông không làm được gì, có lẽ vì triều đình không có tiền đóng Tàu? Hay Khâm Sứ Pháp ở Huế không thích cái tên đã từng mộ nghĩa quân chống Pháp ở chức vụ này???
Sau ông bị đổi ra Hà Nội, Sơn Tây. Chắc ông cũng chẳng thích cái ông Khâm Sai láo Hoàng Kế Viêm (nước Nam có bốn anh hùng, Tường Gian, Viêm Láo, Khiêm Khùng, Thuyết Ngu và ngàn lần ông không thích "hợp tác" với Giặc Cờ Đen để dẹp phỉ, chống Pháp!
Giới thiệu hai trong số bài thơ tiêu biểu của ông:
1. Phiên âm Hán-Việt
Hạc Quan Loạn Hậu
Tự cổ đa tài thị hoạ côn (căn)
Hạc quan quá xứ ám tiêu hồn
Tịch gian ca vũ lai thương kiếm
Khôi lý lâu đài ngoạ tử tôn
Nha tháo hàn vân di bạch trú
Mã tê thu thảo nhập hoàng hôn
Thôn cơ loạn hậu vô nhan sắc
Toạ khiếp sài lang bán yểm môn.
Dịch nghĩa:
Tuần Hạc Sau Loạn
Từ xưa nhiều của cải vẫn là gốc tai vạ,
Qua nơi Tuần Hạc thầm thấy bàng hoàng.
Trên tiệc, đám ca múa toàn là súng gươm,
Trong tro, lâu đài ngổn ngang lớn nhỏ.
Quạ kêu, mây lạnh kéo đến giữa ban ngày,
Ngựa hí, cỏ thu chìm vào hoàng hôn.
Gái đẹp trong thôn sau loạn không ai còn nhan sắc,
Vì sợ sài lang nên một nửa làng đóng chặt cửa.
2, Phiên âm Hán-Việt
Viễn Vọng Hữu Hoài
Khách lộ phong trần cận bạch đầu,
Bi sầu nan thượng Trọng Tuyên lâu.
Vân niêm vãn thụ thiên sơn trụng,
Vũ tẩy hàn sa bán thủy phù.
Quan tái chinh sầu văn lạc địch,
Càn khôn độc lập vọng quy chu.
Thập niên cố quốc Mai hoa tự,
Mộng lý mô hồ mịch cựu du.
Dịch nghĩa:
Nhìn Ra Xa Cảm Hoài
Trải gió bụi ở đất khách, đã gần bạc đầu,
Buồn thương khó nỗi lên lầu Trọng Tuyên.
Mây giăng, cây chiều dày trên ngàn núi,
Mưa rửa, cát lạnh lửng lơ trên dòng nước.
Đang lúc sầu nơi quan ải, nghe tiếng sáo rụng,
Một mình giữa đất trời, ngóng bóng thuyền về.
Mười năm nhớ nhung chùa Hoa mai nơi quê cũ,
Trong giấc một mịt mờ tìm kiếm những bạn chơi xưa.
Phỏng dịch
Gió bụi đường xa đầu đã bạc
Buồn lên lầu vắng nghĩ liên miên
Mây chiều giăng mắc trên ngàn thẳm
Mưa rửa phù sa bãi nổi lên
Tiếng sáo buồn vương lên quan ải
Mình ta đứng ngóng bóng con thuyền
Mười năm đất mẹ xa xôi quá
Nhớ bạn cùng chơi thuở thiếu niên
C.D.M.
Hòa ước nhượng ba tỉnh, ông về miền Trung, sau thăng dần lên Kinh Kỳ Hiệp Lý Thủy Sư. Ông không làm được gì, có lẽ vì triều đình không có tiền đóng Tàu? Hay Khâm Sứ Pháp ở Huế không thích cái tên đã từng mộ nghĩa quân chống Pháp ở chức vụ này???
Sau ông bị đổi ra Hà Nội, Sơn Tây. Chắc ông cũng chẳng thích cái ông Khâm Sai láo Hoàng Kế Viêm (nước Nam có bốn anh hùng, Tường Gian, Viêm Láo, Khiêm Khùng, Thuyết Ngu và ngàn lần ông không thích "hợp tác" với Giặc Cờ Đen để dẹp phỉ, chống Pháp!
Giới thiệu hai trong số bài thơ tiêu biểu của ông:
1. Phiên âm Hán-Việt
Hạc Quan Loạn Hậu
Tự cổ đa tài thị hoạ côn (căn)
Hạc quan quá xứ ám tiêu hồn
Tịch gian ca vũ lai thương kiếm
Khôi lý lâu đài ngoạ tử tôn
Nha tháo hàn vân di bạch trú
Mã tê thu thảo nhập hoàng hôn
Thôn cơ loạn hậu vô nhan sắc
Toạ khiếp sài lang bán yểm môn.
Dịch nghĩa:
Tuần Hạc Sau Loạn
Từ xưa nhiều của cải vẫn là gốc tai vạ,
Qua nơi Tuần Hạc thầm thấy bàng hoàng.
Trên tiệc, đám ca múa toàn là súng gươm,
Trong tro, lâu đài ngổn ngang lớn nhỏ.
Quạ kêu, mây lạnh kéo đến giữa ban ngày,
Ngựa hí, cỏ thu chìm vào hoàng hôn.
Gái đẹp trong thôn sau loạn không ai còn nhan sắc,
Vì sợ sài lang nên một nửa làng đóng chặt cửa.
2, Phiên âm Hán-Việt
Viễn Vọng Hữu Hoài
Khách lộ phong trần cận bạch đầu,
Bi sầu nan thượng Trọng Tuyên lâu.
Vân niêm vãn thụ thiên sơn trụng,
Vũ tẩy hàn sa bán thủy phù.
Quan tái chinh sầu văn lạc địch,
Càn khôn độc lập vọng quy chu.
Thập niên cố quốc Mai hoa tự,
Mộng lý mô hồ mịch cựu du.
Dịch nghĩa:
Nhìn Ra Xa Cảm Hoài
Trải gió bụi ở đất khách, đã gần bạc đầu,
Buồn thương khó nỗi lên lầu Trọng Tuyên.
Mây giăng, cây chiều dày trên ngàn núi,
Mưa rửa, cát lạnh lửng lơ trên dòng nước.
Đang lúc sầu nơi quan ải, nghe tiếng sáo rụng,
Một mình giữa đất trời, ngóng bóng thuyền về.
Mười năm nhớ nhung chùa Hoa mai nơi quê cũ,
Trong giấc một mịt mờ tìm kiếm những bạn chơi xưa.
Phỏng dịch
Gió bụi đường xa đầu đã bạc
Buồn lên lầu vắng nghĩ liên miên
Mây chiều giăng mắc trên ngàn thẳm
Mưa rửa phù sa bãi nổi lên
Tiếng sáo buồn vương lên quan ải
Mình ta đứng ngóng bóng con thuyền
Mười năm đất mẹ xa xôi quá
Nhớ bạn cùng chơi thuở thiếu niên
C.D.M.
***********
Ngắm Cảnh Cảm Hoài
Nhuốm bụi phương xa, tóc bạc nhàu
Lên lầu không nổi bởi sầu đau
Mây giăng, cây phủ trên triền dốc
Mưa xuống, cát vùi dưới nước sâu
Tiếng sáo vọng buồn nơi cửa ải
Bóng thuyền trôi khuất nẻo giang đầu
Bao năm nhớ mái chùa quê cũ
Bạn hữu năm nào nay ở đâu ?
Phương Hà phỏng dịch
***********************
Mailoc xin góp vần cùng CDM và PH
Xa Trông Thương Cảm
Khách phong trần, mái đầu trắng xóa,
Dằng dặc buồn, vất vả lầu cao.
Chiều buông mây núi giăng sầu,
Cát trơ bãi lạnh mưa rào cuốn trôi.
Sầu quan tái, bồi hồi tiếng sáo,
Đứng một mình đau đáu thuyền quây.
Mười năm chùa cũ khôn khuây,
Bạn xưa kỷ niệm mộng đầy nhớ thương.
Mailoc phỏng dịch
7-15-14
***************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét