CẦN NHÌN NHẬN
HỢP LÝ NHÂN CÁCH
CAO BÁ QUÁT THEO HƯỚNG
TƯ DUY LÔGÍCH.
Ngô Văn Lại
Khóa 1 Viện Hán Học Huế
Đồng tác giả bộ Hán thư, sử gia Ban Cố (32-92)
ngay từ thế kỷ I đã cảnh báo chung giới nghiên cứu bằng lời vàng ngọc: “Xem lời
bảo ban của người xưa, nên lật đi lật lại tham khảo đã, đừng lấy cái vào
tai trước làm chủ” (Quan lãm cổ giới, nghi phản phúc tham khảo, vô
dĩ tiên nhập nhĩ vi chủ dã - Từ nguyên)
Đã đến lúc người ta phải
vận dụng nghiêm túc lời khuyên trên để giải quyết những giai thoại về Cao Bá
Quát vốn đã gây nhiễu thông tin hàng trăm năm nay. Từ khi một ít thơ văn chữ
Nôm của họ Cao được giảng dạy ở học đường, tình hình gây nhiễu ấy càng tác hại
rộng rãi khôn lường cho nhiều thế hệ. Nay hãy thử điểm lại các thông tin gây
nhiễu ấy.
Chuyện thứ nhất:
Bài
thơ Bỡn Lý Trưởng Làng Phú Thị.
Tương truyền làng Phú
Thị vừa đắp xong đôi voi phục trước sân đình. Có dư luận xì xào rằng lý trưởng
làng ấy xâm phạm kinh phí. Một bài thơ nôm nguệch ngoạc xuất hiện bên sườn voi: Khen cho
thợ khéo đắp đôi voi. Đủ cả đầu, đuôi, đủ cả vòi. Còn thiếu “cái kia” sao chửa
đắp? Hay là thầy Lý bớt đi rồi?
Người ta sớm khám phá ra
thủ phạm, phạt vạ ông Đồ Cao và ông Đồ đã trừng phạt đích đáng kẻ ngỗ nghịch nọ
đúng theo gia pháp.
Lô gích ở đây là:
1. Cậu bé nổi tiếng thần đồng đọc nhiều nhớ lâu như
Cao Bá Quát, lại là quý tử của ông Đồ, đương nhiên là được bố quan tâm đặt vào
bệ phóng, nhắm đúng quỹ đạo và nạp đủ năng lượng, có nghĩa là tận dụng lẫn lạm
dụng hiệu suất đào tạo, chẳng hòng gì có đủ thời giờ nhập bọn đám trẻ lêu lổng
để tiêm nhiễm những trò rắn mắt quậy phá nầy nọ. Bản thân Cao Bá Quát cũng thừa
ý thức để hiểu mình là ai, đang ở vị trí nào trong xã hội, ông Đồ Cao chả tốn
bao nhiêu thì giờ để đưa điều hay lẽ phải vào tâm trí đứa con mà ông sớm nhận
ra cá tính. Đấy là người quân tử lúc nào cũng phải “hồi hộp thấp thỏm như đi
đến vực sâu, như bước lên lớp băng mỏng” (chiến chiến căng căng như lâm thâm
uyên, như lý bạc băng - Mạnh Tử). Nếu Cao Bá Quát có quan tâm, không
thể không phê phán, tất cậu bé của sách vở như thế sẽ nhắm vào những vấn đề
xứng đáng hơn, chuyện tham ô vặt vãnh chỉ gây bất bình cho người lớn xót của,
không lây lan đến người ớm chọn đèn sách.
2. Cậu bé Cao Bá Quát nhất định có đủ khôn ngoan
để hiểu rằng loại hành động ấy diễn ra ở một làng quê như Phú Thị, thủ
phạm dễ dàng sa lưới, người ta chỉ cần loại suy loại trừ là tóm ngay
thủ phạm, chẳng dễ gì qua mặt nổi lệ làng.
3. Gia phong ông Đồ Cao là
niềm tự hào chung của dân làng, qua những giao tiếp bình thường cũng đã tạo nên
thân mật, Cao Bá Quát chẳng có lý do gì để xúc phạm người trên kẻ trước, đặc
biệt là xúc phạm Lý Trưởng vùng nông thôn. Vậy loại chuyện như thế khó thể xảy
ra, ấy là chưa kể cả đôi voi phục nọ có khi cũng chỉ là sản phẩm hư cấu, chỉ
dùng tạm cho việc chế tạo giai thoại!
288
Chuyện thứ hai:
Tắm
hồ Tây
Chuyện kể rằng vua Minh
Mạng ngự giá Bắc tuần, đến thăm Hồ Tây, bắt gặp cậu bé Cao đang tồng ngồng bì
bõm ở đấy. Nhà vua thét lính lôi lên trói lại, Cao Bá Quát khai mình là học trò, ngẫu nhiên
phạm thượng vì không ngờ có ngự giá đến.
Vua kiểm tra lời khai ấy
bằng vế đối:
- Nước trong leo lẻo, cá
đớp cá.
Cao Bá Quát ứng khẩu lập
tức:
- Trời nắng chang chang,
người trói người.
Vua khen hay, bèn tha
tội.
Dùng lô gích để giải
quyết giai thoại này chẳng khác gì… dùng kiếm chém ruồi. Một đầu óc kém phát
triển đi nữa cũng thừa sức tìm ra khía cạnh vô lý của giai thoại.
1. Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, vào thời điểm
ấy Cao Bá Quát đang sửa soạn thi Hương vì đã hoàn thành cuộc khảo hạch, trở
thành khoá sinh hẳn hoi, tất địa phương có trách nhiệm cấp thêm học
điền, khoá sinh cũng được dự việc hội hè đình đám ngang hàng với người lớn, Cao
Bá Quát dù có thèm muốn đến mấy cũng không thể nào níu lại “quyền trẻ con” được
nữa, trừ phi trả lại học điền, đòi lại quyển thi đã nộp, quyết tâm theo đường
lêu lổng.
2. Lần ngự giá Bắc tuần của vua Minh Mạng đầu
tiên diễn ra vào tháng 9 năm Tân Tỵ, tức là một tháng sau kỳ thi trường Hà. Cao
Bá Quát đỗ tú tài khoa này (Tân Tỵ phát Hương tuyển - Bình
sinh ngũ thập vận) như vậy khó lòng kiêm nhiệm vai trò trẻ con nghịch phá
được nữa. Đấy là lập luận cụ thể theo sự thực lịch sử. Còn lô gích
thuần tuý thì còn lắm
điều phải bàn:
Một là, Hồ Tây là nơi danh lam thắng cảnh có đẳng cấp
của cố đô, quan lại địa phương tất phải đặt người bảo vệ môi trường cẩn thận,
lẽ nào dám coi thường “chiếc mũ ô sa”, buông lỏng quản lý, mặc tình cho trẻ con
coi như ao nhà, thoả thích nghịch ngợm được? Lại giao cho vị hoàng đế vừa đăng
quang xong, phải kiêm nhiệm ngang xương vai trò người canh giữ?
Hai là, gia pháp cụ Đồ không thuộc hạng dân đen bình
thường vì vốn là hậu duệ của một Binh bộ Thượng thư, lại đã nhiều đời dạy học,
liệu có cho phép trẻ con trong nhà tắm truồng ở nơi công cộng,
trước mặt mọi người qua lại được không? Đã là ông Đồ, đương nhiên người ta sẵn
lòng trừng trị đến cả con cái thiên hạ, lẽ nào lại bỏ sót con cái nhà mình?
Ba là, một vị hoàng đế, lại mới lên ngôi chưa lâu,
đang ngồi trên xe buông rèm, xung quanh dày đặc lính tráng hầu hạ bảo vệ kín
mít, hắt nước không lọt (nghĩa quân Vũ Đình Lục, Nguyễn Thế Chung còn đang hoạt
động ở Sơn Tây đã được chín năm! Ấy là chưa kể từ tháng 1, Phan Bá Vành đã mở
đầu cuộc chống triều đình, đến 7 năm ở Nam Định và nghĩa quân của Đỗ Văn Kỷ, Đỗ
Hoàng Thản nổi dậy vào tháng trước ở Sơn Tây sát nách Bắc thành!) như thế, nhà
vua chẳng thể nào thiếu thận trọng để vén rèm nhìn ra, mà dù có nhìn ra thì
cũng chỉ có thể thấy lưng áo lính và vô số dân chúng quỳ mọp hai bên đường tung
hô vạn tuế cùng dãy hương án xông trầm nghi ngút. Tóm lại nhà vua không thể
nhìn thấy gì ở hồ Tây dù thực sự có cả đàn trẻ con đang tắm liều ở đấy, bất
chấp cả đất trời!
Bốn là, chế độ phong kiến rất coi trọng học trò - vì
đó là lực lượng hậu bị rất cần cho mọi thời đại - và do coi trọng nên người ta
rất cần trị nặng tội vô lễ, khiếm kính, chứ không phải cứ đối cho thật giỏi thì
mọi sự suôn sẻ. Nhà văn Chu Thiên có kể rằng Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải từng
đích thân sa thải một thầy cũ của mình - đang là Giáo thụ phủ Hoài Đức - chỉ vì
hồi đi học quan lớn Kinh Lược nọ bị thầy mình phạt đòn về tội đánh bạc nên mấy
chục năm sau cũng vẫn còn căm. Như vậy, dù vua có tha tội đi nữa thì chỉ mới
xong phần của “quân”, còn “sư” và “phụ” thì vô cùng nghiêm khắc mà vẫn còn lo
ngay ngáy là chưa tròn bổn phận nữa. Vân vân và …vân vân.
290
Chuyện thứ ba:
Phê
phán câu đối điện Cần Chính.
Tương truyền khi Cao Bá
Quát vào Huế nhận chức Hành Tẩu Bộ Lễ, điện Cần Chính - thuyết khác bảo điện
Thái Hòa - có trang trí đôi câu đối:
Tử năng thừa phụ nghiệp,
Thần khả báo quân ân.
(Con phải nối cho được
nghiệp cha, Bề tôi phải báo đáp ơn vua.)
Cao Bá Quát bèn phê ngay
bên cạnh:
- Tối hảo! Tối hảo!
Cương thường điên đảo! (Hay lắm! Hay lắm! Cương thường đảo điên!)
Việc đến tai vua Tự Đức
(!), vua gọi Cao Bá Quát vào hỏi, Cao bình tĩnh đáp:
- Muôn tâu Bệ hạ, lẽ ra
người soạn câu ấy phải biết tôn trọng trật tự tôn ti, tức là phải viết:
Quân
ân thần khả
báo,
Phụ
nghiệp tử năng
thừa.
Bẩm, phải như vậy mới
đúng đạo cương thường được ạ!
Vua nghe có lý quá nên
miễn tội.
Giai thoại này cũng phản
lô gích như giai thoại 2, cụ thể là:
1. Điện Cần Chính là nơi vua làm việc hằng ngày,
không phải là nơi vắng vẻ để cho ai lén lút làm gì cũng được. Lẽ nào Cao Bá Quát
có phép tàng hình?
2. Cột điện Cần Chính không thể quá “lùn” đến nỗi
chỉ trang trí được loại câu đối năm chữ như ở nhà mồ, khám thờ?
3. Nội dung lẫn hình thức câu đối như thế chỉ phù
hợp với bài tập nhỏ của nhà trường chứ không phù hợp cho việc trang trí nơi
trang nghiêm nhất của guồng máy tập quyền.
4. Làm quan Bộ Lễ, mỗi lần vào chầu vua tất phải
quỳ mọp trước sân đúng theo phẩm cấp, Cao Bá Quát dễ gì dám coi thường phép
nước, đi lại tự do, coi điện Cần Chính như thứ miếu hoang ở nơi vắng người qua
lại? Vả lại, loại vụ việc như thế nào phải là việc quan trọng đến mức hoàng đế
phải đích thân xử lý! Biến một ông vua ra kẻ bằng vai phải lứa với một viên
quan không ấn là cách làm phản tự nhiên, xúc phạm lý trí người đọc.
5. Trên thực tế, ngay trong năm đầu ở Huế, Cao Bá
Quát đã phạm tội chữa bài thi, bị kêu án tử hình, như vậy hầu hết thời gian làm
quan của ông, ông bị xếp vào hàng trọng phạm hưởng đặc xá, tình cảnh
ấy họ Cao có mặc tình phóng túng, trêu vua bừa bãi được không?
Vân vân …
Chuyện thứ tư:
Hai
quan lớn xô xát.
Chuyện kể rằng có lần
bãi chầu, vừa ra khỏi cổng liền xảy ra xô xát giữa hai quan lớn. Cao Bá Quát
chứng kiến đầy đủ nên bị gọi vào làm chứng. Cao Bá Quát xin khai bằng bút rồi viết liền một mạch:
Bất tri ý hà?
Lưỡng tương đấu khẩu.
Bỉ viết: “Cẩu!”
Thử diệc viết: “Cẩu”,
Bỉ thử giai cẩu,
Dĩ chí đấu ẩu,
Thần kiến thế nguy,
Thần tẩu.
(Chẳng biết ý gì - Hai
bên đấu khẩu với nhau - Ông kia nói: Chó! - Ông này cũng nói: Chó! - Ông kia
ông này đều “chó” - Rồi đến đánh nhau - Thần thấy thế nguy - Thần bỏ chạy). Đã
có một nhà giáo uy tín nọ coi giai thoại này là loại “người thật việc thật” rồi
phân tích khá thú vị trong cuốn “Luận đề Cao Bá Quát”:
- Câu thứ nhất đã lột tả
được quang cảnh của hai chú chó dữ sắp vào cuộc đấu. Cả hai gầm gừ nhau đầy vẻ
khiêu khích.
- Năm câu kế tiếp tượng
trưng cho vụ cắn lộn đúng với tập tính của loài chó. Chúng vừa cắn vừa sủa:
Cẩu! Cẩu! để trợ oai.
- Câu thứ bảy chứng tỏ
cả hai chó đều đuối sức, nhả nhau ra nhưng vẫn gờm nhau dè chừng, lại thăm dò
đối thủ xem sao. Cuối cùng, một chú trọng thương, nhận ra mình yếu thế nhưng cố
sủa đại một tiếng vớt vát thể diện: Thần tẩu! rồi cụp đuôi bỏ chạy biệt tăm.
Phân tích sắc sảo như
thế độc giả bị thuyết phục dễ dàng, quên mất là giai thoại ấy quá ư phản lô
gích.
1. Khi ra khỏi cổng thành, quan lớn nào cũng đều được xe ngựa hay
cáng kiệu và cả tốp gia nhân đón về. Chẳng làm gì có cơ hội xô xát trực tiếp.
Hơn nữa, các vị ấy lại còn bị mũ áo vướng víu, rất khỏ cử động nhanh nhẹn theo
ý mình lại tạo lợi thế cho kẻ ngoài cuộc níu can, khó mà “dĩ chí đấu ẩu” được.
Đã thế, ở thân phận quan nhỏ mà dám to gan chứng kiến mãn cuộc hai quan lớn
“đấu ẩu” thì có lẽ cả đời khó thoát khỏi tội nợ! Cao Bá Quát đâu phải
kẻ xử sự vụng về đến thế?
2. Nền giáo dục phong kiến vốn không hề quan tâm
đến sức khoẻ của học trò nên bản năng hiếu động, hiếu chiến, hiếu thắng đã thui
chột, cơ bắp đã cam tâm tình nguyện thoái hoá, nhường cho sự điềm đạm, nhịn nhục
của phong thái nho nhã, đồng thời đã khiến họ hình thành nếp khôn ngoan, kẻ
dưới tầm hôm nay biết đâu ngày mai có thể trở thành kẻ định đoạt thân phận kẻ
trên tầm hôm trước, nên chả ai dám gây sự với ai để đỡ lo hậu hoạ. Chỉ cần
buông một câu nói thất lễ là đi tong đời quan chức, dại dột đặt dấu chấm hết
cho bao nhiêu công lao đèn sách cùng phấn đấu cống hiến, chẳng ông quan nào
thiếu sót kinh nghiệm tối thiểu đến mức ấy. Riêng với Cao Bá Quát, ta có thể
khẳng định là chẳng bao giờ ông thiếu tế nhị
về mặt lễ độ và nhận định nầy có cơ sở khá vững vàng.
Trong bài thơ dài 24 câu
Di Phan Sinh (gởi Phan Nhạ)
- người bạn trẻ ăn ở
cùng nhà (đã được trời định rằng họ cần phải thân thiết với nhau tối đa như
răng với lưỡi!)
- Cao Bá Quát đã bộc
bạch tâm sự rất đáng tin: Phùng nhân ái hi du
- Thiết khủng mỗi
vong kính (Gặp người là thích giao du vui vẻ - Chỉ sợ ngầm một cách
kinh khủng là quên tôn kính). Ai dám coi lời phản tỉnh
nầy của Cao Bá Quát là nói đùa hay nói dối ?
Chuyện thứ năm:
Lỡm
vua Tự Đức bằng bài thơ kỳ quặc.
Có lần vua Tự Đức hí
hửng khoe với quần thần trong một phiên chầu rằng đêm trước nhà vua mơ thấy
mình nhận được hai câu thơ rất ngộ, mỗi câu đều có xen hai chữ Nôm:
Viên trung oanh điểu khề
khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm
tấm khai.
Trong lúc các quan còn
lo nắc nỏm ca ngợi đấy là chuyện vô cùng kỳ lạ cho mát lòng vua thì Cao Bá Quát
đột nhiên gây bất ngờ:
- Muôn tâu, hạ thần đã
có lần đọc đủ toàn bài thơ nọ rồi ạ!
Nhà vua lẫn quần thần
hết sức kinh ngạc. Lập tức Cao Bá Quát được lệnh đọc bài thơ ấy. Ông đứng lên
đọc làu làu như học trò giỏi quá đổi thuộc bài:
Bảo mã tây phong huếch
hoác lai.
Huênh
hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh điểu khề
khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm
tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp
độp
Thu thiên chỉ kiến vũ bài
nhài
Khù
khờ thi tứ đa nhân thức
Khệnh
khạng tương lai vấn tú tài.
(Ngựa báu huếch hoác đến
trong gió thu,
Người theo vó ngựa huênh
hoang về.
Trong vườn chim oanh hót
khề khà,
Ngoài đồng hoa đào nở
lấm tấm.
Ngày xuân không nghe
sương lộp độp,
Trời thu chỉ thấy mưa
bài nhài.
(Kẻ) khù khờ gặp ý thơ
nhiều người biết,
(Thế mà) khệnh khạng đem
đến hỏi người có học thức!).
Vua Tự Đức căm giận đến
tái người nhưng lặng lẽ cho qua vì không bắt bẻ vào đâu được, còn quần thần thì
tâm phục khẩu phục tài nhanh nhẹn hiếm có ấy của Cao Bá Quát, quá ư thỏa đáng với hiệu Mẫn
Hiên (nhanh nhạy cao độ).
Câu chuyện này có vẻ được
“độ” lại từ vụ Dương Tu lỡm Tào Tháo trong sách Tam quốc diễn nghĩa. Tào Tháo
khoe tác phẩm Mạnh Đức tân thư mình vừa sáng tác rồi đắc ý đọc cho quần thần
nghe, Dương Tu liền bảo đấy là sách cũ của người xưa, trẻ con Tây Xuyên của ông
đều thuộc, Dương Tu vẫn còn nhớ, thế rồi đọc vanh vách không sai một chữ. Tào
Tháo căm lắm, về sau dựa vào sự suy diễn “thông minh chết người” về mật khẩu
“gân gà”, gấp rút ra lệnh xử tử Dương Tu về tội làm rối lòng quân sĩ. Người
phóng tác giai thoại này đã quên nề nếp sinh hoạt cung đình. Trước mặt vua, kẻ
bề tôi bao giờ cũng phải cúi gằm, nhìn chăm chăm vào mảnh kính nhỏ khảm trên
chiếc hốt, cầm khư khư bằng hai tay, ngắm sao cho hai cánh chuồn của mão mình
cân đối, còn khi tâu gởi điều gì thì phải dùng tư thế phủ phục, cúi đầu ngó đất
chứ không được phép nhìn thẳng…long nhan. Chỉ trong trường hợp vua gọi vào tiện
điện thì mới không bị các ngự sử giám sát nghiêm ngặt. Chẳng đời nào vua tôi
lại dễ dàng chuyện trò thoải mái, tíu tít như một đám bạn ở bậc Tiểu Học cùng
nhau đi dã ngoại! Cho dù vua Tự Đức không câu nệ đi nữa thì một người từng can trọng tội như
Cao Bá Quát ngay từ năm Thiệu Trị 1 (bị giam giữ, tra tấn đúng bài bản!) cũng
khó tìm đâu ra dũng khí để nghĩ đến chuyện lỡm vua, huống chi vua Tự Đức vốn là
ông vua đối xử với bề tôi rất nghiệt ngã, chưa bao giờ “cởi trói” cho lễ giáo
phong kiến. Lịch sử đã chép rõ nhiều vụ. Ngay với Trần Tiễn Thành (1813-1883),
người được coi là Bùi Độ (765-839) của Đường Hiến Tông tái sinh, nhà vua có chủ
trương cơ cấu nhân vật gốc Minh Hương nầy để về sau dùng làm Phụ Chính Đại Thần, nên đã ban cho Trần cuốn Bùi Độ truyện, lại cải tên Văn Nghĩa ra
Tiễn Thành, ngụ ý rằng ông ta sẽ nối gót Tô Hiến Thành đời Lý để tận trung báo
quốc. Mỗi khi vua đi vắng, Trần Tiễn Thành luôn là người xử lý mọi việc thay
vua và khi vua se mình thì Trần được uỷ nhiệm chủ trì các quốc lễ nữa
(phần lớn các đối trướng trang trí ở rạp hành lễ là tác phẩm ngự chế hoặc vua
sai Trần biên soạn).
Thế mà trong 35 năm dốc
lòng mẫn cán, Trần Tiễn Thành bị vua phạt bổng (cúp lương) trước sau đến 840
tháng (70 năm!). Những sai trái khiến bị cúp lương ấy lắm khi nghe rất hài
hước, quá sức tưởng tượng. Đó là chưa kể họ Trần còn “được” giáng cấp liên miên
tuy chỉ là giáng lưu, tức là vẫn giữ nguyên nhiệm vụ nhưng không được hưởng chế
độ thăng thưởng. Tuy các đợt đại khánh tiết xoá dần nhưng cũng chỉ xoá bớt phần
nhỏ chứ không lúc nào hết nợ. Biết tính ông vua lạ đời ấy, bản thân họ Trần có
lúc còn ngẫu hứng đón ý vua dâng biểu… xin được giáng cấp nữa.(!)
Còn với Nguyễn Tri Phương
(1800-1873) vốn được tin dùng từ thời Minh Mạng, lại là thông gia với vua Thiệu
Trị, làm quan thì đã từng cùng một lúc kiêm nhiệm luôn sáu chức Tổng đốc Lục tỉnh Nam
Kỳ, làm tướng thì luyện quân, lập đồn đắp luỹ, đích thân xung trận, thế mà khi
dâng sớ can gián, Tự Đức bỏ mặc cho vị lão thần ba triều ấy quỳ dang nắng suốt
ngày. Các đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ hết lời can
gián, vua cũng không chịu nhận sớ!
Những chi tiết trên đây
nghe rất khó tin cho ai chưa đọc bộ tự truyện sáu cuốn Văn Nghị Công Niên Biểu của Trần Tiễn Thành. Tính khí một ông vua như thế, Cao Bá Quát lại làm
ở bộ Lễ, cách Tử Cấm Thành chưa tới hai phút đi bộ, lẽ nào gần chục năm trời mà
họ Cao chưa biết tự lo cho mình, đến nỗi dám khiêu khích ngạo mạn với đấng chí
tôn bằng những tiếng khù khờ, khệnh khạng?
Người hư cấu giai thoại
này có lẽ thiếu thông tin nghiêm trọng về mọi mặt, nên ý đồ tô điểm cho Cao Bá
Quát thật độc đáo thì lại phản tác dụng, biến họ Cao thành một mẫu người xốc
nổi, đánh mất lý trí, trong khi điều làm cho Cao Bá Quát tồn tại xứng đáng,
vinh quang nghìn năm của ông không phải là những giai thoại mà là sự nghiệp thơ
văn đồ sộ vô song về lượng lẫn chất (chính sự dửng dưng trước sự nghiệp đó là
lý do khiến không thành phố nào dành cho cái tên Cao Bá Quát một đại lộ đủ tầm
cỡ để giúp người đời hình dung đúng tầm vóc về trí tuệ nổi trội của ông).
Chuyện thứ sáu:
Câu
đối đánh giá Cao Bá Quát
Tương truyền vua Tự Đức
có ngẫu hứng viết câu đối sau:
Văn như Siêu, Quát vô
Tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất
Thịnh Đường.
(Văn như Nguyễn Văn
Siêu, Cao Bá Quát thì văn thời Tiền Hán không còn đáng kể - Thơ mà làm đến mức
như Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thì thơ Thịnh Đường phải mất địa vị độc
tôn!).
Đánh giá nhân tài trong
nước dưới triều đại mình bằng lời lẽ khoa trương như vậy nghe có vẻ hoàn toàn
phù hợp với phong cách một ông vua chuộng văn ghét võ như Tự Đức. Thế nhưng chỗ
phản lô gích ở đây thật lộ liễu!
Cao Bá Quát vào Huế làm
quan vào tuổi 33, chỉ mấy tháng sau ông bị ghép vào tội chết do chữa bài thi.
Bấy giờ Tự Đức còn là một hoàng tử 12 tuổi. Từ đó thơ Cao Bá Quát đã bị coi là
thơ nghịch tặc, có viên giáo đạo nào đủ gan đọc thơ ấy cho điện hạ nghe không?
Lại có gan giảng giải chỗ hay, chỗ lạ trong thi tứ không? Làm thế đáng được coi
là tòng phạm về tư tưởng. Mười bốn năm sau đó, họ Cao còn nhận bản án tru di
tam tộc vì phạm tội đại nghịch. (Làm Quốc Sư trong phong trào Lê Duy Cự). Nếu
Tự Đức có lỡ làm một câu đối như thế thì thực hiện vào thời điểm nào? Chẳng có
thời điểm nào cả, vì trước sau Tự Đức chỉ nhận định họ Cao là… siêu trọng phạm.
Nhà thơ Byron (1788-1824) từng phát biểu “Tôi ghét tội lỗi nhưng tôi yêu kẻ
phạm tội.” Phải chăng vua Tự Đức cũng nhìn nhận việc đời “thoáng” như nhà thơ
Anh quốc ấy? Vô số lần không! Quan niệm thông thường thì khi xử án, quan Hình Bộ có thể châm chước hạ khung hình phạt cho người có tài và nhà vua dễ dàng ân
xá họ. Luật pháp triều Nguyễn thì không có ý châm chước ấy. Kẻ biết pháp mà
phạm pháp thì bị xử nặng hơn ba bậc. Đã là vua thì càng thẳng tay càng có lợi
cho kỷ cương. Mà Tự Đức đâu phải là ông vua “nới tay” để khen Siêu, Quát? Cứ
xem cái cách nhà vua cư xử với anh ruột mình là Hồng Bảo, chị dâu là Đinh Thị
Thuỵ, con Hồng Bảo là Đinh Đạo, Đinh Tự, Đinh Chuyên, Đinh Tương (đã bị buộc
đổi theo họ mẹ) và hai đứa bé năm
tuổi cùng ba tuổi của Đinh Đạo, cả nhà ấy lần lượt bị treo cổ đến 8 mạng người!
Thậm chí đứa con trai ba tuổi của Đinh Đạo chịu án xong vẫn chưa chết hẳn,
tương truyền là cho vào quan tài xong người ta vẫn còn nghe tiếng khóc oa oa
cũng bị đưa đi chôn luôn! (Luật pháp Tây Phương từng tha bổng những trường hợp
thoát chết ấy). Thật ra thì tội trạng của 8 người nọ toàn là tham gia âm mưu và
không hề biết gì chứ chưa một ai dám xâm hại “long thể” nhà vua, dù chỉ ném một
hạt cát! Lòng dạ của ông vua như thế liệu có còn khoảng trống nào để bao dung
hai kẻ từng phá hoại kỳ thi ở tiền triều ngay tại chốn kinh kỳ như “thần Siêu,
thánh Quát” hay không? Với bất cứ người nào, bất kể là vua hay không, lẽ nào
lại có thể vừa yêu vừa ghét thật đến nơi đến chốn cùng một đối tượng duy nhất
hay không?
Về cụm từ “thần Siêu,
thánh Quát” không rõ là cha đẻ hay con đẻ câu đối trên, nhưng không phải là
không có vấn đề. Tục coi tác giả là thần thành vốn không có tiền lệ ở Việt Nam. Thế mà cụm từ này
bám chặt dư luận nhiều đời. Suy ra, có lẽ nhu cầu xã hội đòi hỏi phải là thần
thánh thì người ta mới chịu suy tôn? Chờ đọc thơ văn họ rồi mới khâm phục thì
là chuyện đường dài, tốn sức lắm thì phải!
Chuyện thứ bảy:
Cái
mũi vô duyên.
Tương truyền khi Tùng
Thiện Vương đưa Cao Bá Quát xem tuyển tập xướng hoạ của Mặc Vân Thi Xã (câu lạc
bộ xướng hoạ của đám quan chức ở Huế cùng một vài phu nhân, nữ sĩ) Vương không
giấu được vẻ tự hào, thế nhưng khi xem xong Cao Bá Quát bịt mũi thốt:
Ngán thay cái mũi vô
duyên
Câu thơ thi xã, con thuyền
Nghệ An!
Thế là niềm tự hào phơi
phới của Vương thoắt chốc biến thiên từ vô cực dương về vô cực âm! Danh sĩ Cao
Bá Quát mà là kẻ hành động lỗ mãng như vậy ư! Một anh Hành Tẩu mà dám mạt sát
cả một tập thể quyền quý giữa trung tâm chuyên chế như vậy được ư! Coi thơ văn
họ là thứ khắm thối mà họ cắn răng chịu nhục được ư! Cái “thanh lịch” của người
Tràng An ở Cao Bá Quát biến đi đâu rồi?
Phải suy nghĩ theo hướng
này:
Thứ nhất, nếu họ Cao không hề có thiện cảm với thi xã
ấy, chẳng đời nào Tùng Thiện Vương đưa tác phẩm của họ cho Cao xem, mà đã đưa
xem thì tất phải có đôi lời khen dù chỉ miễn cưỡng chiếu lệ, ít ra thì cũng nể
lòng người ta tin cậy chứ làm gì có chuyện chê, làm gì có chuyện ví von thậm
tệ?
Thứ hai, cự ly giữa người cho xem thơ và người đọc thơ
ở đây quá lớn, một bên là em ruột đương kim hoàng thượng, một bên chỉ là quan
cấp thấp (chánh lục phẩm) của một bộ không được đánh giá cao: bộ Lễ! Lẽ nào Cao
Bá Quát vốn từng trải hơn người lại chưa được nghe câu ca dao đánh giá Lục bộ:
Thứ nhất: bộ Lại, bộ
Binh,
Thứ nhì: bộ Hộ, bộ Hình
cũng xong.
Thứ ba thì có bộ Công,
Nhược bằng bộ Lễ, lạy
ông xin về!
Nói cách khác, Cao Bá
Quát cho dù là “thánh” thực thụ đi nữa cũng phải mang mặc cảm tự ti đầy mình,
chẳng đời nào thất thố như vậy được.
Thứ ba, xã hội phong kiến không bao giờ dung thứ kẻ vô
lễ. Một sự xúc phạm như vậy lẽ nào cả cái thi xã nọ không làm cho ra lẽ? Dễ gì
người ta vui vẻ nghe tai nọ ra tai kia? Phải tốn bao nhiêu lần công sức dàn xếp
chưa chắc xoá nỗi một câu lỡ lời như vậy chứ đâu phải đơn giản? Cái xã hội kinh
kỳ đã trải qua 9 chúa 3 vua ấy đâu dễ xuê xoa như ở vùng quê hẻo lánh?
Thứ tư, đây là câu thơ lục bát, vốn là thứ Cao Bá Quát
chỉ dùng rất thỉnh thoảng trong các câu mưỡu của Hát nói. Nếu buột miệng lỡ lời
khi đang đọc thơ, họ Cao chỉ có thể buột miệng bằng thơ thất ngôn hay ngũ ngôn
bằng chữ Hán thì mới là điều bình thường.
Chuyện thứ tám:
Hai
câu đối, hai tính cách.
Người ta kể rằng, quân
Lê Duy Cự bị đánh tan, Cao Bá Quát bị bắt sống và khi đưa về giam cầm nghiêm
ngặt ở ngục Sơn Tây, vị Quốc sư nọ đã khẳng khái ngâm nga:
Một chiếc cùm lim, chân
có đế,
Hai vòng xích sắt, bước
thì vương.
Như vậy, chứng tỏ Quốc Sư quả là người có chân mạng đế vương hẳn hoi chứ không phải là loạn quân,
nghịch tặc như lịch sử đánh giá lệch lạc!
Rồi khi bị điệu ra pháp
trường, Cao Bá Quát cũng đĩnh đạc “tranh thủ” vịnh cảnh ngộ mình:
Ba hồi trống giục, đù
cha kiếp.
Một nhát gươm đưa, bỏ mẹ
đời!
Đúng là mẫu người hào
hùng, khí khái coi cái chết nhẹ tựa lông hồng! Có điều lạ là hai câu đối mang
hai phong cách quá ư khác nhau, câu trên của một Cao Bá Quát thâm trầm, tâm lý
hướng nội, câu dưới của một Cao Bá Quát bạt mạng, tâm lý hướng ngoại. Cuộc sống
chung của hai phong cách ấy trong cùng một tâm lý, cùng một nhân cách nghe thật
đáng ngờ.
Chuyện thứ chín:
Gươm
và súng.
Cao Bá Quát chết ở pháp
trường hay chết trong trận đụng độ giữa quân triều đình với quân khởi nghĩa?
Trong một thời gian dài người ta tin rằng ông chết dưới lưỡi gươm đao phủ vì
thuyết ấy nghe …lãng mạn hơn, khí phách anh hùng hơn. Thế nhưng sử sách chép rõ
việc viên Suất đội Đinh Thế Quang nhờ bắn được Cao Bá Quát ở trận Yên Sơn nên
được thăng Cai Đội. Đầu Cao Bá Quát bị cắt đem bêu nhiều nơi, rồi băm nát ném
xuống sông. Sử sách ghi chép rành rành như thế, nhưng ông Trúc Khê đã làm cho
dư luận không tin vào sử, có lẽ chỉ vì không muốn mất đôi câu đối mình dày công
chế tác nghe quá… đã!
Rồi đến Nguyễn Tuân
(1901-1987) củng cố thuyết pháp trường ấy bằng truyện ngắn Chữ Người Tử Tù
trong tập truyện Vang Bóng Một Thời, ai đã đọc là nhớ như in. Truyện nọ kể rằng
viên cai ngục Sơn Tây đã lén lút xin Cao Bá Quát để lại cho y mấy chữ làm kỷ
niệm và ông Huấn Cao đáp lại thịnh tình. Câu chuyện này có lẽ đến nay hãy còn
đứng vững trong tâm trí nhiều người.
*
* *
Chín câu chuyện trên đây
được nêu ra bàn lại có lẽ chỉ là phần nổi của tảng băng. Cao Bá Quát là người
nghệ sĩ cần cù, thơ văn đặc sắc, lại rất ưa “du lịch sinh thái” nên đến đâu ông
cũng để lại thơ văn xướng hoạ. Qua thơ văn ông, ta biết thời gian bị đày làm
lính ở Đà Nẵng, ông từng vào tận Thăng Bình thăm nhà cũ của Vũ Trinh (Lai
Sơn Cố Trạch), ngược dòng sông Diêu Trì để thăm nhà người bạn xướng hoạ (Đề
Ông Thị Sơn Cư) vốn là nhà của nội tổ Ông Ích Khiêm ở tận làng Cây Sung.
Điều gây tiếc rẻ cho Cao Bá Quát là không có dịp làm bạn với khắp cả mọi người
(Bình sinh hồ hải duy tương tích - Quát tận đông tây nam bắc nhân - Gởi Thương Sơn Công). Cá tính ấy ở ông rất phù
hợp với Đường Bá Hổ, Từ Văn Trường, Tô Đông Pha ở Trung Quốc và người ta đã sưu
tầm in thành sách khá nhiều giai thoại về họ. Thế cho nên Cao Bá Quát cũng vậy.
Người ta thèm kể, thèm nghe, thèm tin vào những giai thoại ấy, thậm chí lắm
người còn đưa vào cả sách giáo khoa những chi tiết phi thực ấy về Cao Bá Quát. Đến đây, một vấn đề cần đặt ra để duy trì sự trong sáng cho tri thức, nói cách
khác là loại bỏ những thông tin gây nhiễu cho sách giáo khoa sắp biên soạn hay
đã lưu hành để trả lại chân dung đích thực của danh nhân và nhất là để cho các
vị đặt tên đường không trộn lẫn Cao Bá Quát với… Ba Giai, Tú Xuất …
Chắc có người nghĩ rằng
“không có lửa làm sao có khói.” Vâng, có lửa thật đấy nhưng là lửa của Trúc
Khê, của Nguyễn Tuân chứ không phải của bản thân Cao Bá Quát. Và khói ở đây là
sự lan truyền vô tội vạ do sức hấp dẫn của những giai thoại ấy.
Một câu hỏi khác:
Cách làm của Trúc Khê,
Nguyễn Tuân có đáng trách hay không?
Từ thâm tâm, cách làm
của các vị ấy không đáng trách. Đáng trách là những kẻ truyền bá giai thoại
chưa qua gạn lọc thông tin. Các vị ấy thực sự có công đã mở ra một lối hâm mộ nhân vật cho những người
không có điều kiện tiếp cận sử liệu và không có dịp tìm đến thơ văn Cao Bá Quát
hoặc có tìm đến nhưng chưa thấu hiểu giá trị. Phải có cách nào đó để người đời
hiểu Cao Bá Quát, một tài hoa lỗi lạc dành trọn đời mình cho thơ văn và thơ văn
vốn dĩ là thứ có công góp phần cải tạo tâm hồn, nâng đỡ và nâng cao tâm hồn cho
vô vàn thế hệ loài người.
N.V.L.
(Trích Đặc San Viện Hán Học Huế 55 Năm Nhớ Lại)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét