Huế Là Duyên
(Lai Kinh Du Học Ký)
Lâm Khương Nhàn
6. Ngôi Trường Của Tôi: Viện Hán Học
(Di Luân Đường)
(Lai Kinh Du Học Ký)
Lâm Khương Nhàn
6. Ngôi Trường Của Tôi: Viện Hán Học
(Di Luân Đường)
Dũng định đưa tôi đi chơi khắp làng,
thăm viếng họ hàng, người thân quen mà Dũng khoe rằng: “nhiều lắm, đến chiều
chưa hết đâu anh Nhàn.”
Thú thật rằng tôi bồn chồn lắm- với tờ giấy
báo tin nhập học luôn rọ-rạy, dù được xếp chèn thật kỹ trong bóp, đút sâu trong
túi quần sau, không quên cài thêm chiếc nút cho chắc chắn!... nên tôi đề nghị
để lúc khác sẽ đi thăm làng. Giờ thì nhờ Dũng đưa tôi ra Thành Phố Huế để biết
đích xác các nơi cần đến (Viện Đại Học, Viện Hán Học Huế…), dù rằng hôm nay là
ngày Chủ Nhật, thì ngày mai Thứ Hai, mình sẽ thuận lợi giao tiếp hơn.
Hai anh em trên chiếc xe đạp Urago của
tôi, ngược lại con đường về nhà tối hôm qua để ra phố Huế. Lúc nầy có hơn 10 giờ sáng rồi. Trời quang,
tiết Thu se se mát thật dễ chịu, mà lòng tôi bỗng rộn ràng như đứa học trò nhỏ
trong bài văn tôi-đi-học của Thanh Tịnh
vậy.
Con đường kéo dài có hàng 3 đến 4 cây số
gì đó, mà 2 bên đường, tối qua tôi không thấy được… cả một không gian tươi mát xanh
đẹp vô cùng. Thì ra vùng ngoại vi thành phố Huế là đây- và tôi cũng có biết
trước được qua sách vở chẳng sai chút nào. Không có tình trạng nhà cửa liền kề
chật kín như ngày nay, mà xa xa ẩn hiện thấp thoáng sau những khoảng sân vườn
nhà thật sâu, thật rộng rãi- những ngôi nhà cổ kính, thường mái ngói rêu phong-
mà dân gian hay gọi là nhà rường. Những ngôi nhà tranh cũng có, mà thường là
nhà phụ hoặc nhà chòi phục vụ nhu cầu chăn nuôi trồng trọt rẩy vườn của các nhà
chính.
Ga Huế đây rồi. Một kiến trúc đồ sộ có
từ thời Tây. Qui mô và mỹ thuật không chê vào đâu được. Sân Ga thật
rộng. Người mua kẻ bán, xe cộ, khách khứa vãng lai tấp nập. Từ Long Thọ ra, nhà
Ga nằm bên phải, bên trái con đường đối diện là một nhánh của dòng sông Hương (sông
An Cựu), lờ đờ nước chảy mà trong xanh mát rượi một màu, ánh lên từ bờ cỏ bên
sông và loài rong tảo trải phủ khắp cả đáy sông.
Hôm rày, suốt tuần lễ nay, tôi cặm cụi
bên chiếc máy tính, ngày ngày moi ký ức gõ được chừng một trang giấy. Sợ rằng
tuổi già và bộ nhớ chập chờn sẽ gây nhiều khó khăn cho tôi trong việc viết lách
nầy. Nhưng không, may quá, ký ức về Huế- duyên của tôi vẫn trào tuôn sung mãn;
có điều sức khỏe và thú-ham-chơi hàng ngày (khi-cuộc-cờ, lúc-chén-rượu…) nên
tôi không
thể
ngồi lì một mạch để hoàn thành công-trình-văn-chương của tôi như thời trẻ trung
tráng kiệt được. Hôm nay là ngày 15 tháng 9 năm 2014, tôi viết đến đây (thấy
trên máy tính ghi số trang là 8); hồi chiều này xem trận Olympic VN tạo
cơn-địa-chấn ở giải Asiad 17 tại Hàn Quốc khi đá bại đối thủ trên cơ Olympic
Iran tỉ số cách biệt 4-1. Đả quá, tôi tự thưởng cho mình (và bà xã nữa) 2 lon bia kèm buổi cơm chiều. Niềm vui và hơi
men lâng lâng sảng khoái, tôi đi ngủ sớm (mới hơn 19 giờ, thường thì phải 22
giờ). Trong giấc-mơ-hồng, tôi thấy mình là một tao-nhân, lênh đênh thả thuyền
trên dòng sông Hương thơ mộng, dự một hội thi thơ văn gì gì đó. Trang giấy đang
viết dở chừng trên tay, bị gió đùa hất bay xuống dòng nước. Vớt lên, cố dán mắt
đọc các dòng chữ bị lem, ố mờ vì nước… cố lắm, cố lắm mà không sao đọc được.
Giờ nạp bài thì sắp hết đến nơi rồi. Hoang mang, lo lắng… chợt bừng tỉnh giấc-
thì ra cơn-mê! Thực hư lẫn lộn. Huế-duyên suốt tuần nay trở về gần gũi thân thiết
sống bên tôi kể cả khi ăn, lúc ngủ. Thảo nào!- Và nữa, tôi nhớ lời hứa với
anh Phan Thuận An sẽ đóng góp bài viết
cho giai phẩm mà nhóm các anh
chị cựu sinh viên Viện Hán Học Huế sẽ phát hành nhân kỷ niệm 55 năm ngày thành
lập trường. Cuối tháng 9 nầy làm sao phải gửi kịp bài cho các anh. Trông chờ
biết chừng nào ngày hội ngộ gia đình cựu SVVHH Huế vào cuối tháng 12 năm nầy
(2014). Phải chăng thực là như vậy, và hình thành một-mộng là thế kia.
Chuyện ghi ra đây là thật đấy, không hư
cấu đâu. Bây giờ nhìn đồng hồ chỉ đúng 01 giờ sáng ( ngày 16-9-2014). Tôi bật
tỉnh dậy gõ đoạn văn nầy vừa lúc 24 giờ khuya trước đó. Giờ tạm dừng đi ngủ tiếp.
Từ Ga Huế đi tiếp thêm một đoạn đường
nữa là đến cầu Nam Giao. Các địa danh tôi ghi nhận ở bài viết nầy đều theo hồi
tưởng của tôi thời thập niên 60 của thế kỷ trước, không biết bây giờ có thay
đổi gì không. Chẳng phải là bảo thủ, chỉ cần lên mạng truy tìm và so sánh cập
nhựt cũng dễ dàng thôi, nhưng tôi muốn dòng ký ức trào tuôn một cách thật tự
nhiên và y như là cái thuở tôi bén duyên hội ngộ Huế lần đầu tiên vậy .
Ngay dốc cầu Nam Giao là ngã tư: rẽ trái
qua cầu là đường qua phố chợ (Đông Ba), rẽ phải- đường dốc cao cao dẫn về chùa
Từ Đàm, Đại học xá, Đàn Nam Giao và… điệp trùng đồi núi với bao lăng tẩm cổ
kính của thời vua chúa nhà Nguyễn , tạo cho cố đô Huế vang danh thế giới. Thẳng con đường bên
nầy bờ sông độ vài trăm mét là gặp cầu Bến Ngự…
Ngã tư dốc cầu Nam Giao nầy, bỗng làm
tôi chợt nhớ đến câu thơ của một bạn giáo, khi tôi mới về dạy học những ngày
đầu tiên ở trường Trung học công lập Đất Đỏ (quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy năm
1965):
Đất
Đỏ chia tay, bốn nẽo đường
Đường
ra phố chợ mờ son phấn,
Đường
đến sơn khê ngợp núi đồi……….
Nam Giao, Bến Ngự, những cây cầu, và những
con đường… là không gian thật quen thuộc thân thương, gắn bó với tôi suốt 3 năm
trời lưu học ở Huế. Trên đầu dốc Nam Giao là cư xá sinh viên (Đại học xá) nơi
tôi ăn ở, và dưới kia, cạnh dốc cầu Bến Ngự là Viện Hán Học, trường tôi.
Hết dốc cầu Nam Giao, vừa qua khỏi con đường ven sông, ngay góc ngã tư
con đường ấy, tôi còn nhớ ngôi nhà gạch khá khang trang, rộng rãi- có 2 chị em
o-nớ, chúng tôi gọi bằng chị (chắc lớn hơn chúng tôi 5 bảy tuổi gì đó thôi).
Chúng tôi- và năm ba bạn sinh viên niềm Nam ra, ăn cơm tháng ở đó một thời
gian ngắn. Hai chị rất thân quen, vồn vã, vui vẻ với chúng tôi. Tôi cũng không
quan tâm gì cả- chỉ thấy có 2 chị em sống với thằng cu con độ 2 năm tuổi, con
của o-em, chập chửng biết đi, tập nói khiến ai ai cũng cưng chìu đùa giỡn với
bé. Có lần, chị cho xem hình của bé vừa lấy ở photo về, xinh đáo đễ. Thấy chúng tôi tấm tắc khen, vài hôm sau o-chị
tự rửa ra biếu mỗi “cậu” một tấm! Tôi vô tư cất vào ví, về sau nhiều lần về Sài
Gòn bị các cô em của tôi cứ trêu là thằng-cu của anh Tư (Nhàn) ở Huế nè… Tôi
đâm ngượng phải vất bỏ đi lúc nào không biết. Bây giờ thằng cu đó không biết
còn mất thế nào- hơn 5 mươi năm rồi còn gì. Nhanh thật!
Có những buổi sáng trên đường đến
trường, đổ dốc Nam Giao xuống, tạt ngang
ghé qua điểm tâm bằng tô bún bò Huế của mụ Ba Béo Ù, đặt quang gánh trước hiên
nhà hai o-chị. Tô bún to đùn, quánh đỏ một màu ớt-là-ớt, bốc khói nghi ngút
quyện những cọng bún trắng tinh, lăn-xoăn quanh lát chân giò béo ngậy cùng
những miếng nạm bò bùi bùi…ấm dạ làm sao những sáng tiết trời đông xứ Huế. Cảm
nhận đó còn lãng vãng trong tôi cho đến tận bây giờ, khiến tô bún bò của nhà
hàng cao cấp chuyên đặc sản các món Huế (Vỹ Dạ) ở Vũng Tàu ngày nay không làm
tôi thấy ngon miệng- Tại hoài niệm hay vị-giác-của-người-già đánh lừa tôi?!
Cũng trên con đường bắt đầu lên dốc nầy có
quán cái cóc- lều tranh tạm bợ, cô hàng là một o-bé-nhỏ luôn dán mắt vào quyển
vở chăm chỉ học hành nhân lúc canh hàng… nghe nói là một nữ sinh Đồng Khánh, o
tên Trâm. Em nhỏ nhắn không đẹp rực rỡ mà xinh xinh có duyên ngầm thế nào đó
khiến bao anh chàng sinh viên từ Đại Học Xá đi về ngang qua chẳng ít lần ghé
lại mượn cớ mua trái chuối, quả xoài, hoặc lì-ngồi xơi bát nước chè xanh nhâm
nhi cây kẹo mè xửng để cùng em dăm ba câu chuyện vớ vẩn không đâu… mà lấy làm
vui vui suốt ngày hôm đó.
Tôi cũng có vài lần ghé qua, mà thú thực
chẳng cảm-thấy-gì-gì hết, chẳng qua thuở đó tôi còn-bé-lắm-các-anh-chị-ơi,
chẳng biết chi-chi đâu. Chẳng phải viết ra điều nầy e ngại nọ kia với bà xã, mà
có bạn đồng môn rất thân quen với tôi vô tình xác nhận minh chứng được điều đó
với bà-nhà tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét