Chủ Nhật, 11 tháng 1, 2015

Huế Là Duyên (Lai Kinh Du Học Ký) Phần 7 (tiếp theo và hết) - Lâm Khương Nhàn

                 Huế Là Duyên
                 (Lai Kinh Du Học Ký)
                 Lâm Khương Nhàn

7. Thầy và Bạn
Theo đường Nam Giao từ cư xá trở lại, đến chùa Từ Đàm rẽ phải con đường ngang hơn trăm mét, lại rẽ trái, đổ hết dốc xuống là đến chân cầu Bến Ngự. Băng qua bên kia cầu, nằm ngay góc phải chỗ chân cầu là chợ Bến Ngự cổ xưa đây rồi.
Ai ra xứ Huế thì ra,
Ai về Bến Ngự…
Ai về …là…về sông Hương.
Nước sông Hương, còn thương mong đợi,
Duyên bến Ngự…
Bài hát tôi nghe và tôi thường lẩm nhẩm ca đến thuộc từ lúc nào không hay biết.
Trọn vẹn biết bao xứ Huế chỉ với một ít ca từ tiêu biểu: Huế-sông Hương-Bến Ngự!
Tôi thấy như hiển hiện trước mặt tôi, ngay trên màn hình máy vi tính biểu tượng Huế. Bấm vào đó có 2 đường dẫn đến 2 hộp thư mục: một là sông Hương, hai là Bến Ngự.
Mở hộp thư mục sông Hương ra, ôi vô cùng phong phú nội dung và hình ảnh: dòng sông xanh mát, đẹp và thơ mộng làm xuyến xao bao con tim văn nhân thi sĩ, làm chùn bước chân con dân Huế mang ý định xa lìa quê hương, níu kéo hàng biết bao “khách-lạ” có một lần về đây chiêm ngưởng… Cầu Tràng Tiền, nét chấm phá duyên dáng, kết nối hai bờ sông Hương bằng những vại, những nhịp cong cong, uyển chuyễn, thanh tú, mỹ miều như những o-gái Huế bẽn lẽn mỗi lần nhè-nhẹ bước chân qua:
Gió tung tà áo ghì không kịp,
Bẽn lẽn nhìn quanh, mặt đỏ gay!.
  (thơ của Thầy Phan Văn Dật, cựu GS VHH Huế)
Những con đò nhỏ, những ghe câu, những du thuyền rồng phượng sơn son thếp vàng vẳng buông lời ca tiếng nhạc cung đình, gợi nhớ một thời vua chúa… Đẹp làm sao, những công trình kiến trúc cổ từ thời Tây: Viện Đại Học, trường Quốc Học, trường nữ Đồng Khánh, các phân khoa, giảng đường đại học. Đập Đá, rồi Vỹ Dạ thôn vườn, kéo hun hút về xa, mút tận đến cửa biển Thuận An, mà điểm nhấn khó quên vùng đầm phá Tam Giang kỳ vĩ ( sợ-truông-nhà-Hồ, sợ-phá-Tam-Giang…)
Bên kia dòng sông, cư dân phố thị sinh động ồn ào hẳn ra. Đường phố Trần Hưng Đạo sầm uất số một lúc bấy giờ ở Huế. Bến xe, hàng quán, khách sạn, tửu lầu... Tiếng người, tiếng xe cộ và nhạc xập xình từ các quán café Phấn… làm nhộn vui khách vãng lai. Chợ Đông Ba gắn kết với thương hiệu Huế bằng các quầy sạp đầy ắp hàng hóa rau quả đủ thứ.  Nổi tiếng hơn hết là chiếc nón lá và kẹo mè xững tại khu chợ trung tâm nầy.  Nối tiếp là phố Gia Hội mà thú vị nhất là món mì-vịt-tiềm và thuê đò ngủ đêm, mới cảm nhận trọn vẹn cái cung trầm lắng sâu của Huế.
Sông Hương cũng gợi nhớ trong mỗi chúng ta những khu vườn cây trái xum xuê, những ngôi nhà rường cổ xưa quý hiếm, thấp thoáng đó đây hoặc ven hai bờ sông rượi mát ở rải khắp các thôn làng ngoại vi Phố Huế: Long Thọ, Nguyệt Biều, Kim Long, Hương Trà, Hương Thủy… Và danh tích Chùa Thiên Mụ trầm mặc ru lòng người phát khởi thiền tâm.
Hộp thư mục thứ 2 mở ra: Bến Ngự.
Chỉ chữ Ngự thôi, là gợi nhớ ngay rộn ràng cảnh ông hoàng bà chúa của một thời hưng thịnh Nguyễn Triều…
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Long bào, áo mão cân đai một thời từng rộn ràng nơi đây: Bến Ngự. Con sông, bến nước, chứng tích ngày nào nay vẫn còn đó mà người xưa giờ đâu tá?!.
Thư mục Bến Ngự hàm chứa nào là hình ảnh, nào là chuyện kể, nào là giai thoại từ vua quan đến dân dã… Mà cũng đã qua hết rồi, chỉ còn lại đó đền đài, cung điện, thành quách, hào lũy và lăng tẩm, bia mộ… minh chứng cho hậu thế triết thuyết “…tang-điền-biến-vi-thương-hải…”  Tôi thì tâm đắc nhất, với ý nghĩ rằng, cám ơn lắm-lắm hoàng tộc Nguyễn Triều truyền lưu hậu thế một gia sản mỹ thuật tuyệt vời: Những o-Tôn-Nữ! Cứ nhắc đến Tôn Nữ xứ Huế là người người hình dung ra ngay những thiếu nữ xinh đẹp, hoàn hảo - vì đó là công trình lưu truyền “gen” chỉ có hoàng tộc mới có đầy đủ điều kiện và thẩm quyền chọn lọc như ý từ các họ tộc quý phái, thanh lịch – cũng như trong giới dân dã thanh tú mà thôi… thì "tác phẩm Tôn Nữ” không đẹp hoàn hảo mới thật là chuyện kỳ lạ.  Chẳng gì, những Tôn-Nữ mà tôi được diện kiến qua, y như rằng đều tuyệt đẹp! (…những bà-chị-Tôn-Nữ cựu sinh viên Viện Hán Học Huế của tôi ơi, thưởng em cây kẹo đi… LK Nhàn).
Góc trái chân cầu Bến Ngự, cặp con đường ven bờ sông, hướng đỗ ngược về phố chợ Đông Ba, chỉ vài mươi mét thôi: Viện Hán Học Huế, ngôi trường thân yêu của tôi đó.
Đây Viện Hán Học, đây cửa Khổng sân Trình.
Ngàn dặm xa xôi anh em sĩ tử miền Nam chúng tôi hội tụ về đây tu chí lập thân. Mà chẳng sai chút nào đâu; nơi đây, chúng tôi được các bậc hiền sĩ (đúng nghĩa ), uyên thâm tinh túy cổ học phương Đông thật hiếm hoi còn sót lại từ thời phong kiến khoa bảng. Các cụ Hà Ngại, cụ Duy Bột, cụ Nhuận, cụ Định … người thì áo dài khăn đóng uy nghi, người vận Âu Phục trịnh trọng mỗi khi đứng lớp. Bút lông thịnh hành ngày nào thời khoa cử, mà chỉ còn thấy lởn-vỡn trong các câu lạc bộ thư pháp hay trong lăng miếu, đường phố những ngày Tết nhứt đầu năm thì nơi nầy, Viện Hán Học- thầy trò chúng tôi ngày ngày nắn nót, chăm chỉ từng đường nét, dấu chấm phá bằng bút lông lẫn bút sắt sao cho chữ thánh hiền, lời triết nhân đan xen bộc bạch thật trọn vẹn ý nghĩa. 



 Thầy Võ Như Nguyện & phu nhân cùng các cựu sv VHH  (năm 2000 tại Mỹ, thầy 85 tuổi).

                  
       Thầy Võ Như Nguyện năm 2013 tại Mỹ (92 tuổi ta )

Sinh viên chúng tôi cũng được trau dồi kiến thức thật sâu về triết học, về lịch sử đông tây kim cỗ… mà cũng nắm bắt vững vàng ngoại ngữ Anh Pháp.
Viết đến đây, tôi chạnh lòng nhớ đến quý Thầy của tôi.
Từ khi gửi áo thư sinh lại trường (Viện Hán Học), năm 1965 tôi về dạy học tại Phước Tuy (Bà Rịa), rồi Vũng Tàu… đã 50 năm. Suốt thời gian ấy, trong cương vị người Thầy, quanh tôi là bằng hữu, là học trò. Thầy theo cái nghĩa “ tam-nhân-đồng-hành…” thì tất có nhiều rồi, còn thực sự thầy-dạy-học-tôi thì không có!
Trong cái bộn bề lo toan cuộc sống của thời là trụ cột gia đình về kinh tế thì thời gian và tâm trí nào còn đâu để mong tìm về thăm thầy cũ. Bây giờ đây, đã thực sự được quẳng-gánh-lo-đi rồi, tôi (và các bạn, các anh chị cũng vậy thôi) mới nghe nhớ, nghe thương, nghe thiếu lắm, lỗi lắm phận làm trò của mình, đối với các vị thầy khả kính của đời ta.
Chưa bắt liên lạc được với các anh chị cựu sinh viên Viện Hán Học Huế, mãi đến năm 2012 tôi mới dự được lần họp-bạn-đồng-môn đầu tiên tại Mỹ-Tho, do anh Ngô Văn Tiên và Phạm Văn Minh gửi thư mời. Rồi tiếp đó là ở nhà chị Sương (Bình Dương- 2013), Vũng Tàu (12-2013)… Từ đó đến nay, tôi biết được nhiều hơn, “thấy” được nhiều hơn về gia đình Viện Hán Học Huế chúng ta… trên trang blog vhp.Havu. Tin Thầy, tin bạn kẻ mất người còn, già đau bệnh yếu… thương-nhớ quá đi thôi.  Cám ơn chị Hồng Phi, tuổi cao mà chí thì còn cao hơn, lập ra trang blog Havu, coi như sân vườn nhà, anh chị em gia đình Hán Học chúng ta có nơi mà hội tụ, hàn huyên vung vít, dù kẻ chân trời người góc biển. Thầy cô chúng ta đó, thầy Võ Như Nguyện- tuổi tròn trăm mà complet veston hẳn hoi; cô vẫn sang trọng với chiếc áo dài truyền thống, đài-các quý phái như thuở nào cung cách của một mệnh phụ phu nhân. Bên trời Tây xa xôi lắm lắm, có mấy trò được cơ hội viếng thăm, dù có điều kiện về kinh tế, nhưng tuổi đã vào hàng bảy, hàng 8 hết rồi Thầy ơi, mong thầy hiểu cho tấm lòng của chúng con, những nhà giáo hậu duệ truyền nhân của Thầy. Chúng con kính lời thăm Thầy Cô ạ!.
Chuyện kể về Thầy, hồi ức nhắc về Thầy nhiều nhiều lắm. Các anh, các chị những khóa trên có bài viết chi tiết, cụ thể, rõ ràng về Thầy Võ Như Nguyện ngày xưa ở Viện Hán Học. Thầy không chỉ là bậc tôn sư uyên bác khả kính, Thầy còn là vị Giám Đốc một thời, dốc tâm dốc sức gầy dựng và phát triển Viện, với ước vọng duy trì và phát uy tinh hoa cổ học, văn hóa Đông phương thâm thúy, nhân bản… mà nếp sống của mọi con người tốt (tự nhận hoặc được nhìn nhận) trên trái đất nầy gần như tự cảm thụ và hành xử theo (như một “đạo” vậy mà ). Thầy còn là người cha, thầy coi đám sinh viên như con cái trong nhà, quan tâm thương mến, giúp đỡ thiết thực theo từng trường hợp: đứa cần cái ăn, đứa không chỗ ở… thầy đều biết và thu xếp hỗ trợ kịp thời. Thậm chí, đám sinh viên Miền Nam chúng tôi hàng mấy chục, Thầy nhớ tên gần hết và nhiều lần thầy kêu về nhà dùng buổi cơm chung với gia đình Thầy - “…cho mấy con đỡ nhớ nhà…!”  Chúng con biết ơn Thầy nhiều lắm lắm Thầy ơi.
Riêng bài viết của bạn Nguyễn Đăng Vận, cùng K4 với tôi, kể thật chi tiết về tất cả các thầy, các hồi ức trường lớp, bạn bè thật quá đủ rồi.  Gần như ký ức của bạn Đăng Vận đã bao trùm toàn bộ nội dung, những vụ việc diễn ra không những với riêng tôi, mà với tất cả các bạn đồng lớp K4 chúng ta một thời rồi vậy ( xem tại blog vhp.havu …).
Vài chi tiết trong bài viết đó, tôi tâm đắc quá nên mạn phép bạn Vận, tôi kể lại ra đây để cùng nhớ, Vận nhe.  Một là hình ảnh Thầy Nguyện bệ vệ ở văn phòng Giám Đốc, khác hẳn Thầy-Nguyện-Ông-đồ mỗi khi có giờ, vào lớp dạy chúng ta môn tập viết bút lông. Hình ảnh thầy Nguyện thân thiện quá, xuống đến từng bàn, khom người, cầm tay chấp bút chỉ vẽ cho trò nầy trò nọ đường ngang, xổ dọc, dấu chấm, đá móc… Thầy dạy chúng ta tập tễnh đồ-chữ-nho!  Hiện nay (2014 ) Thầy Cô vẫn khỏe mạnh và đang định cư ở Pháp.  Hồi Tết năm 2013, tuổi đã 99 (Thầy sinh năm 1915 ), Thầy vẫn còn gửi thư chúc Tết môn sinh của Thầy…
Hai là Cô Trang, giáo sư Pháp văn. Bạn Vận dùng chữ “nhiếc mắng-nặng-lời”… đúng quá đi thôi. Cô Trang trẻ đẹp, sang trọng, thời trang rất model, đi dạy bằng ô tô riêng… và là giáo sư nữ duy nhất của Viện Hán Học nữa. Những cái thật-riêng đó tạo nên một hình tượng cũng rất-riêng khó quên về cô Trang trong mỗi sinh viên Viện Hán Học, chứ không riêng ở K4 chúng ta, phải vậy không Vận?  Phong Cách rất Tây, nhanh nhẫu từ đi đứng cho đến ngôn từ, nên chi các cụ đồ-già (quý Thầy), các cụ đồ-non (các sinh viên) đều không quen-mắt, thấy gai-gai sao ấy. Trong số “ bị-nhột-mắt-nhất” chắc là bạn Vận mình, nên chi các “từ” mà bạn dùng để hồi tưởng về Cô-giáo-của-mình có hơi “bốc” quá không (… “Cô coi chúng tôi như rơm rác…”), chứ theo tôi, phong cách Cô Trang mới và lạ lẫm quá nơi cửa-Khổng-sân-Trình (Viện Hán Học) vốn đạo mạo nho-nhã mà thôi, trong thâm tâm “đa-phần” đều nể phục lắm (Cô Trang đỗ đạt bên Tây về mà).
Cám ơn Vận nhắc nhớ cho tôi về các Thầy, về các môn học- dù còn dở dang, cũng đã tròn 3 năm dồi mài nơi ấy. Môn Hán Văn đến những 12 giờ một tuần (học đọc, học viết, văn thơ Trung Quốc kim cổ…). Môn Việt Văn cũng 6 giờ (rất chuyên sâu văn học Việt Nam qua các thời đại).  Môn Triết , môn Lịch sử, môn Địa lý (cả đông-tây-kim-cổ)...
Mỗi Thầy trong hồi tưởng của tôi đều là các vị trí thức, học giả uyên thâm khả kính dù là các thầy trẻ như Thầy Nguyễn Văn Trọng, Thầy Nguyễn Văn Dương, Thầy Nguyễn Hữu Châu Phan… đúng là hình mẫu của bậc trí thức cao cấp đương thời. Các vị Thầy nầy luôn complet cravat, giày da bóng lộn… cùng chiếc cập-táp to dùng trĩu nặng một kho tàng tri thức bên trong, luôn sẵn sàng sẻ chia, truyền thụ cho bọn sinh viên chúng tôi.  Nghe nói, các vị nầy đều là xuất thân từ các danh gia vọng tộc quyền quí của xứ kinh kỳ. Không nhờ ô-dù, mà chính tài năng học vị xuất sắc của các Thầy nên đã được điều về dạy các trường thuộc Viên Đại Học Huế nầy đó.


                          (Thầy Phan Văn Dật)

Ấn tượng tiếp theo là Thầy Phan Văn Dật, dạy môn Việt Văn. Tôi ngưỡng mộ Thầy từ dáng người thanh tú cao cao, từ những lời rao giảng truyền cảm và khối kiến thức văn chương chữ nghĩa của Thầy. Cái lịch lãm tế nhị, trao chuốt một cách thành thục tự nhiên của Thầy, ai có một lần đối chứng ắt hẵn nhớ phục hoài thôi. Kho sách riêng của Thầy tại nhà còn nhiều và quý hơn Thư Viện Quốc Gia ở Huế thời đó. Nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tác phẩm thi văn của thầy đã xuất bản, được nhiều người biết đến.
Gió tung tà áo ghì không kịp,
Bẽn lẽn nhìn quanh mặt đỏ gay!
Đã có ghi bên trên rồi, nhưng tôi cố tình nhẩm đọc lại, vì đó là 2 câu thơ của Thầy, tôi tâm đắc nhất. Cái uyên thâm của thầy qua kho sách vở, cái thanh tú của Thầy qua vóc dáng  và tính cách lịch lãm, cái lãng mạn của Thầy… qua 2 câu thơ nầy vậy .
Thầy tôi thì nhiều vị lắm, vị nào cũng khả kính, khó quên. Nhưng nếu phải ngồi viết một bài văn với tựa đề Thầy-tôi, chắc tôi chọn ngay Thầy Phan Văn Dật! (có thể cũng do thiên kiến,… vì nối tiếp Thầy, tôi cũng là Thầy-Giáo).
Còn các vị Thầy dạy Hán Văn, chúng tôi thường gọi là “Cụ” Mà là Cụ đúng nghĩa vậy (ngoài Thầy Võ Như Nguyện).  Các cụ Nguyễn Duy Bột, cụ Hà Ngại, cụ La Hoài (Người Hoa), cụ Châu Văn Liệu… khi chúng tôi nhập môn Viên Hán Học các cụ đều trên lục tuần, có cụ lên lớp luôn áo dài khăn đóng đúng như  hình ảnh  cụ Đồ Vũ-Đình-Liên, mà chúng ta ai cũng biết qua bài mỗi-năm-hoa-đào-nở…

                    (Cụ Hà Ngại & Cụ Bà cùng các môn sinh VHH)

Nói đến chữ Hán, các trường, nhất là Đại Học Văn Khoa, dù ở Huế hay Sài Gòn (trong giới Hướng Đạo nữa), thập niên 60 của thế kỷ trước, giới sinh viên và giáo sư ai cũng biết đến tên gọi thân thương: Cha Thích.  Cha là Linh Mục, lúc nào cũng áo chùng đen rất uy nghi trịnh trọng. Cha dạy môn Hán văn. Chữ Tàu cha viết đúng nghĩa rồng- bay-phượng-múa, uyển chuyện, lả lướt mà đẹp vô cùng. Cách dạy học của Cha cũng thật độc đáo. Học trò đều là sinh viên, có anh khóa 1 sinh năm 1930 kìa.  Nhưng tất tất, đã là
                 
                        
               (Cha Thích và các sinh viên Miền Nam của VHH)

học trò của Cha thì phải là em bé, cùng Cha hát hò, cùng Cha vỗ tay theo nhịp các bài hát thật hồn nhiên vui tươi như các em bé ở nhà trẻ, mẫu giáo vậy.  Những bài hát thân quen, giản dị nào “…cái nhà, là nhà của ta…”,  “ …Xuân du phương thảo địa…”,  “…vui ca lên nào anh em ơi…” v.v. luôn rộn vang, hả hê trong những buổi học cùng Cha.     
      Với cha càng hồn nhiên, càng bình dị… là triết-lý-sống cao thâm nhất, kẻ phàm phu thường nhận thức sai lầm, khó thấu hiểu được. (gần giống như 9 điều… cho người gìa của Chu Dung Cơ, cựu thủ tướng Trung Quốc).
Cho đến bây giờ, hàng năm kỷ niệm ngày mất của Cha được tổ chức khắp nơi, thường xuyên nhất là ở Sài Gòn, do hầu hết các thế hệ học trò của Cha ở mọi vùng đất nước, ở nhiều đoàn thể, ở nhiều trường học ngày xưa, kéo nhau về tham dự, tưởng niệm vị Thầy thật tài hoa, độc đáo, ấn tượng nầy: Cha Thích.
Khoá 4 chúng tôi không có may mắn như các khóa đàn anh trước đó về cơ ngơi trường ốc học tập. Biết được, và sau nầy tôi có tận mắt tham quan cung Di Luân Đường trong Thành Nội, nơi khóa 1 và khóa 2 được tu học tại đó. Nhìn ảnh minh họa kèm theo bài viết nầy, hẵn các khóa đàn em chúng tôi ghen tị là phải lắm.  Di Luân Đường là một phần trong quần thể cung điện, hơn thế nữa, nơi đây là  trường Quốc Tử Giám, được coi như là cái nôi của nền văn hóa học thuật Nguyễn Triều.  Biển đề Hán Học Viện, cùng quý cụ-Thầy khoa bảng, áo dài khăn đóng… hiện diện nơi đây… Ôi, chẳng phải Cửa-Khổng-Sân-Trình là gì?!  Nên chi, chuyện thật tôi nhớ lại là, sau 30-4 -75 mấy ngày, theo thông báo của Ban Tiếp Quản, tôi đến trụ sở phường Thắng Nhì (Bến Đình Vũng Tàu) ghi tên trình diện. Tiếp tôi là anh cán bộ rất trẻ truy vấn và ghi vào mẫu giấy khai báo,… đến mục hỏi về tôn giáo, tôi khai đạo Khổng. Anh cán bộ gắt giọng hỏi lại “đạo gì?” Tôi nhanh trí hiểu ngay là anh ta chẳng biết gì là đạo Khổng đâu, tôi đáp ngay: “không có đạo.”  Ok liền! (ghi, tôn giáo: không ). Phải chăng cũng là… Huế, duyên… vì chính nơi Huế nầy mới có một Viện Hán Học, một  chốn Cửa-Khổng-Sân-Trình để tôi tu học và tự chọn lấy một tôn giáo riêng cho mình từ đó: Khổng-Giáo. Thờ Cha Kính Mẹ, biết ơn tổ tiên… Tạị gia đình riêng của tôi ở Vũng Tàu, không có bàn thờ Phật, không có bàn thờ Chúa, chỉ có bàn thờ gia tiên mà thôi.  Cái gì cũng có nguyên cớ của nó. Vốn là Ba tôi theo đạo Phật nhiều đời, Má tôi lại con nhà đạo dòng bên Thiên Chúa. Từ khi lớn

                   
                (Lễ Khai Giảng niên khóa 1960-1961 tại Di Luân Đường Huế)

lên có đủ nhận thức, chưa bao anh em chúng tôi “bị” Ba hay Má bắt hoặc khuyến dụ theo một tôn giáo nào… Má tôi mất sớm, khi tôi chưa tròn mười tuổi, tôi chẳng thấy Ba đi Chùa lễ bái lần nào. Anh em chúng tôi được Ba và Má-kế dẫn đi tham dự vui chơi  chùa chiền cũng như nhà thờ vào những ngày Phật Đản hoặc Noel, nhưng mà vòng vòng hưởng ứng phong trào thôi (đạo-vòng-vòng). Từ khi có gia đình riêng, Bà-xã cũng đồng tình với tôi về quan điểm đạo Thờ-cúng-ông-bà-tổ-tiên nầy, mà tôi gọi là Đạo-Khổng.


            (Lễ khai giảng niên khóa 1961-1962 tại Nội Vụ Phủ)

Khóa 3 viện được dời về Tòa nhà Nội Vụ Phủ, còn gọi là dinh Đức Quốc Trưởng Bảo Đại. Nơi nầy rộng thoáng, uy nghi bề thế, cũng mang nhiều hơi hướng của một thời quân chủ vua quan… nhưng kiến trúc ảnh hưởng Tây nhiều hơn (vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn mà!)  Từ khóa 4 chúng tôi (1962) đến ngày cuối cùng Viện bị giải tán (1965) mới buồn ơi là buồn. Viện Hán Học “được” dời về một ngôi biệt thự thời Tây, hai tầng, cả thảy chỉ chừng mươi phòng cho hàng trăm sinh viên cùng mấy mươi giáo sư, ban điều hành Viện chen chút học tập và làm việc.  Ngôi trường tọa lạc trong khuôn viên rất khiêm tốn, ngoài phần xây dựng, còn lại chỉ là cái sân nho nhỏ, may mà thời ấy sinh viên ít dùng xe máy riêng tư như ngày nay, không thì chẳng đủ chổ để xe nữa kìa. Cổng trường nhìn


        

ngay ra sông An Cựu, chỉ cách một con đường nhựa chạy dọc theo bờ sông. Tuy vậy, nơi nầy cảnh quan khá hữu tình. Con đường ven bờ sông từ thật xa dẫn đến trường là cỏ xanh mượt mà, hàng phượng vỹ ấp ôm rượi mát và rực hồng sắc hoa mỗi kỳ hè đến..
Đọc lại tư liệu về thành lập Viện Hán Học Huế “…Viện Hán Học Huế trực thuộc Viện Đại Học Huế, được thành lập do sắc lệnh số…ngày…1959 , được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký …, và câu “…trong huấn thị, Linh Mục Viện Trưởng nói vừa rồi có gặp vị nguyên thủ, và Tổng Thống có hỏi Cha rằng, sinh viên Viện Hán Học đã ra trường chưa để ông còn bổ dụng…” (bài viết của anh Phan Đình Trừng trong tập san Ký Ức và Hoài Niệm kỷ niêm 50 năm thành lập Viện Hán Học Huế)
Và nữa, trong nghị định thành lập Viện Hán Học, mục bổ dụng sau khi tốt nghiệp: một số là chuyên viên khảo cổ, một số là tùy viên sứ quán các nước Đông Nam Á, số còn lại sẽ là Giáo Sư Trung học… Hấp dẫn biết chừng nào, được ưu ái thấy rõ. Làm tôi nhớ đến mẫu chuyện mà trong nhiều lúc trà-dư-tửu-hậu tôi vẫn hay kể cho các bạn hữu Baria, Vũng Tàu nghe rằng…“Viện Hán Học Huế chúng tôi, nhiều người dị nghị cho rằng, đó là một lò-luyện-đặc-biệt của chế độ Ngô Đình Diệm, mượn danh nghĩa trường học, nhưng thực ra để đào tào các chuyên-viên-nòi (dạng nhân-sự-nguồn bây giờ) nhằm phục vụ cho chế độ của ngài Tổng Thống  nên chi, thời ấy cũng có lời-xì-xầm  gọi Viện Hán Học chúng tôi là Viện-Cần-Lao (đảng Cần-Lao của chế độ Diệm-Nhu). Thực hư, có không - thế nào thì chỉ có ngài Nhu-Diệm mới biết được thôi. Và trong vài trăm sinh viên khắp các khóa đó, có hay không mấy “vị” là người-của-Ngài ?  Tôi, và hầu hết anh chị đồng môn mà tôi quen biết, tiếp xúc thân tình, xin xác nhận rằng chúng-em-chả-biết-gì-hết. Sinh viên Hán Học thuần túy, rồi là một thầy giáo thuần túy, thật vô tư chuyện chính-chị-chính-em đó. Xin thề!

       
Từ niên khóa 1962 -1963 đến ngày giải tán(1965) Viện Hán Học Huế tại cơ ngơi nầy (Bến Ngự)

Sau ngày 30 -4 -1975, tôi và vô số thầy cô giáo ở Miền Nam cũng bị họanh họe cái-nhớp-đảng-Dân-Chủ ấy mà. Lại cũng oan-ôi-ông-địa! Hồi trước (1975), gần như giáo chức đi dạy thì “bị” điền vào danh sách Đảng Dân Chủ, chứ có biết ất giáp gì đâu.
Tự hào trung thành tuyệt đối với quan điểm sống tịch-bất-chính-bất-tọa, và nhất quyết không màn đến chuyện chính-chị-chính-em (có biết, có tìm hiểu để tích lủy kiến thức và ứng phó tốt hơn trong cuộc sống), chuyên tâm là một thầy giáo, dạy học và dạy học… LK Nhàn tôi chẳng e-ngại bất cứ hù dọa nầy kia của bất kể thế lực cường bá nào từ trước 1975 tới nay. Nên hồi những năm 1965-1971 chiến tranh còn diễn ra ác liệt ở quận Đất Đỏ (quê hương Võ Thị Sáu, trường Trung học công lập Đất Đỏ tôi dạy, ngày nay đổi tên là Trung học PT Võ Thị sáu), giáo sư trẻ tuổi LK Nhàn giao du rất thân mật thường xuyên với các sĩ quan, các vị quan chức, công chức địa phương… thế mà chiều tối sẫm vẫn dám còn ngồi nhậu với bằng hữu, hoặc phụ huynh học trò địa phương ở tận các thôn ấp trong sâu… mà lính tráng và công chức thời đó, ở quận Đất Đỏ cứ trời chạng vạng tối là phải rút hẳn vào vòng thành trong quận trú ngụ để  tránh VC… Tôi thì vô tư, mà thường thì được quí-vị-phụ-huynh-vùng-sâu nầy bảo đảm “Thầy yên tâm mà, ai sao người-ta biết ráo hết…”  Sau này, tôi mới biết ra rằng các-quý-vị ấy đều là "người-ta" hết trọi! Các học trò vùng-nôi VC ấy ngày nay rất nhiều em là cán bộ lãnh đạo từ tỉnh cho đến khắp các quận huyện ở Bà Rịa Vũng Tàu… Các em vẫn tôn kính tôi, thăm viếng tôi những ngày Nhà Giáo, ngày Tết nhất; hoặc khi có hôn sự mừng vui bao giờ cũng nhớ, đến tận nhà ân cần trao thiệp kính mời.  Đến thời điểm nầy (2014), các cựu-học- trò-quan-chức của tôi đã về hưu cũng khá nhiều rồi. Còn bên ngoài (chính quyền VNCH)  thì nhiều bạn hỏi tôi, bộ anh Nhàn CIA sao mà  giao du khắp các ban ngành vậy! Có gì đâu, vui hết mình, trung thực hết lòng… ai mà chẳng thích kết giao.  Tôi chẳng “ xịa-xẹo ” gì cả.

                   (Dũng - Nhàn tại khu Du Lịch Đại Nam 2013)

          Năm 1963 chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Viện Hán học cũng bị Bộ Giáo Dục Miền Nam thất sủng… dây dưa đến 2 năm sau (1965) thì chính thức bị giải tán. Các sinh viên đã tốt nghiệp (học đủ 5 năm) được bổ nhiệm Giáo Sư Trung Học, các sinh viên dở dang các khóa, số thì vào Đại Học Sư Phạm, người thì được nhận thẳng vào học tiếp ở Sư Phạm Qui Nhơn, số khác tùy nghi (do tự nguyện) tìm kiếm việc làm thích hợp…

 Riêng tôi, ban đầu xin vào học ở Sư Phạm Qui Nhơn, được chỉ chừng một tháng, tôi về ngay Nha Trung Học Saigon, nộp đơn xin làm Giáo Sư Tư Nhân dạy giờ. Tôi nộp kèm theo đơn là bằng Tú Tài 2 ban D cùng chứng chỉ hoàn thành năm thứ 3 Viện Hán Học Huế. Chỉ một tuần lễ sau, tôi nhận được sự-vụ-lệnh bổ nhiệm về dạy môn Việt Văn tại trường Trung học công lập Đất Đỏ Phước Tuy. Tôi nhận việc ngay đầu niên khóa 1965-1966. Trong sự vụ lệnh ấy, họ tính 3 năm Hán Học Viện như 3 chứng chỉ ở đại học nên ưu ái gọi đi dạy ngay.

(SVL Đính Chánh và Bổ Túc... GS Công Lập Đất Đỏ cua LKNhan 1966) 

  Hai năm sau, tôi được gọi về dự một khóa Tu Nghiệp Sư Phạm ngắn hạn (mấy tháng gì đó) tại Saigon, rồi được nhập chính ngạch GSTHDIC ngay sau đó… Đến năm 1968 tôi đã nhận chức vụ XLTV Hiệu trưởng trường THCL Đất Đỏ. Con đường sự nghiệp tôi đang thăng tiến tốt, thì cuối năm 1968 tôi lại “bị” gọi đi thụ huấn quân sự 9 tuần, gọi là khóa 1 giáo chức (thời Thủ Tướng Trần Văn Hương). Từ quân trường (không có ra đơn vị, nên chưa có KBC) về, dạy tiếp đến đầu năm 1971 tôi xin chuyển về dạy trường Trung học Vũng Tàu.  Sau 30 -4 -1975 “được học tập…” 6 tháng, trở về tôi “ không xin” đi dạy lại, làm nghề tự do luôn.
Các bạn đồng môn Viện Hán Học của tôi, nhiều bạn than phiền hay tỏ ý chẳng hài lòng lắm vì bị dở dang, vì bị không như ý  (không được trọng dụng) như nghị định thành lập, ở mục bổ dụng hứa hẹn con đường công danh thật huy hoàng, hấp dẫn. Riêng tôi lấy làm hài lòng lắm lắm. Theo tôi, chúng ta (anh chị em sinh viên Viện Hán Học) được mhiều lắm chứ, được tiếp thu một khối tri thức, học thuật tinh hoa khá đủ để anh em chúng ta vững vàng trong cuộc sống… và quý nhất, hầu hết anh chị em chúng ta đều trở thành quý Thầy Cô giáo khả kính hết kia mà!.
        Mỗi con người chỉ hưởng được một kiếp sống. Giàu nghèo, đẹp xấu, sướng khổ… như đều có sự xếp đặt của thiên mệnh, có phải muốn mà được đâu. Phấn đấu cho cuộc sống tốt đẹp hơn thì cũng là bản năng của con người. Rất tốt, nhưng chừng mực thôi để  dành lại cho đời-ta chút gì đó… thụ hưởng chứ. Vui sống và nhìn cuộc đời bằng đôi mắt lạc quan thì cuộc sống sẽ vui đẹp hơn, hạnh phúc hơn, lãng mạn hơn. Mời thử xem.
         Một lối-hồng-thêu-gấm-trải-hoa luôn sẵn rộng mở, sao ta chẳng nhanh bước vào… bởi thiên hạ vốn nhiều toan tính. Hãy giản đơn như triết lý và cuộc sống của cha Thích chúng ta. Cha thấy hạnh phúc, chúng ta cũng sẽ thấy được hạnh phúc như Cha thôi.
                   
(Cha Thích và các SV Miền Nâm)
                       
               Vũng Tàu, ngày 23 tháng 9 năm 2014.
     Lâm Khương Nhàn, cựu SV K4 Viện Hán Học Huế
    (Trích Đặc San 55 Năm Nhớ Lại để kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Viện Hán Học Huế)



Không có nhận xét nào: