Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2015

Người Lươm Tiền Trên Bãi Đậu Xe - Thuyên Huy

Người Lượm Tiền 
Trên Bãi Đậu Xe Robert Barrett
1.
    Mới chập chững vào những ngày đầu Thu mà trời hình như lạnh sớm. Cũng như thường lệ, trên đường làm ca đêm, đi bộ về, từ đầu góc công viên Barrett, theo lối mòn nhỏ nằm giữa hai hàng cây thông chưa đủ cao, chạy đổ dài dọc xuống cánh đồng cỏ, cuối bờ sông Maribyrnong, Ngữ băng ngang bãi đậu xe phía Nam khu thương mại High Point để về nhà trọ. Sương giăng mù cả một khoảnh trời sáng sớm, lờ mờ chuyến xe điện từ hướng Moonee Ponds lặng lẽ ngang qua, trên xe không thấy ai và ở trạm đón cũng không có bóng người. Người đàn bà trong chiếc áo lạnh lùng thùng, tay dắt con chó nhỏ màu trắng ngà đi ngang, gật đầu chào buổi sáng, Ngữ đáp lại như mọi ngày, không buồn nhìn mặt nhau. Người đàn bà và con chó khuất dần ở cuối ngõ ra công viên từ lâu nhưng không thấy bóng dáng bác Tư, người đàn ông lớn tuổi mà sáng nào Ngữ cũng gặp khi đi làm về ngang, lang thang trên bãi đậu xe. Ngữ đứng lại, đảo mắt nhìn kỹ dưới những gốc cây khuynh diệp, có tàng lá lớn ướt đẫm hơi sương bao quanh nơi này, không một bóng người, ngoại trừ hai ba con chim Hải Âu đuổi nhau giành đôi miếng ăn thừa, mà người đi mua sắm vứt lại sau buổi chiều ra về muộn. Rải rác đâu đó, hơn một chục cái xe đẩy mua hàng của mấy cửa hàng lớn và siêu thị Woolworth, nằm bừa bãi trên mấy lối đi dành cho người đi bộ.
    Ngữ quen bác Tư vào một sáng đầu Thu năm ngoái, trong những ngày đầu, mới đi làm ca đêm cho một xưởng sản xuất ghế ngồi an toàn, gắn trong xe hơi cho trẻ em ở Tottenham sau khi hảng điện tử cũ, nơi Ngữ vào làm từ ngày đến Úc đóng cửa, dời về Queensland, môt tiểu bang khác, cách đây hơn mấy ngàn cây số. Trước đó vài hôm, ngày nào cũng vậy, trên đường đi bộ về nhà trọ, băng qua bãi đậu xe này, cũng vào giờ này, Ngữ đều thấy một người đàn ông đi đứng khập khễnh, trông có vẻ già tuổi, trong bộ quần áo cũ nhàu nát, đội cái nón vải rộng vành đen màu bạc như sương, lũi thũi đẩy từng cái xe mua hàng, bằng sắt bạc của siêu thị, xếp nối hàng dài nhau trong khung cọc sắt dành cho khách hàng trả lại, sau khi chất đồ vào xe hơi rải rác trên bải. Ông cứ lầm lũi đẩy, cúi gầm mặt xuống đất không ngó ai, nhưng cũng không có mấy người qua vì trời còn quá sớm. Ngữ nhìn ông trong mệt rã, sau một đêm thức trắng làm công, vội vã về để còn kịp ngủ bù lại cho đêm nay.
    Buổi sáng đầu Thu năm ngoái đó, trên đường đi bộ về, bất chợt trời đổ mưa lất phất như sương mang theo cái lạnh giao mùa khó chịu. Người đàn ông với bộ quần áo nhàu nát và cái nón vải cũ bạc màu sương mà Ngữ gặp mấy hôm trước, đã có trên bãi đậu xe từ hồi nào rồi, hình như ông mới đẩy một hai xe mua hàng, vì còn thấy nhiều cái khác còn nằm rải rác, chắn ngang những lằn vạch sơn trắng chia ô đậu xe. Đi ngang qua, ông không buồn nhìn lên, Ngữ cũng không buồn ngó lại, ở phía dưới đồi cỏ, con sông Maribyrnong lặng thinh chờ mặt trời lên đâu đó. Chưa kịp bước qua phía bên đường, có tiếng kêu “trời ơi” nghe thật rõ, át tiếng mưa, Ngữ khựng người quay lại, ông trợt té nằm ngã dưới đất, bên cạnh cái xe mua hàng cũng lật nghiêng, bất động.
    Ngữ quăng túi xách, ngồi bệt xuống, cố dùng hết sức đỡ ông lên. Toàn thân ông run từng chập, Ngữ cởi cái áo khoác của mình ra, choàng qua người ông, rồi một lần nữa đỡ ông đứng dậy. Qua màn mưa lất phất, cả hai ướt sũng, ông cố nhìn xuống đất, trên mặt đường nhựa, rải rác hai ba đồng bạc cắc ngay chỗ ông té hồi nãy. Ngữ nhặt túi xách lên, dìu ông chầm chậm qua bên kia đường, ngồi xuống cái băng gỗ dài đặt một bên hành lang cửa ra vào khu thương mại. Ông thì thầm hai tiếng cảm ơn trong lúc Ngữ đưa tay vuốt nước mưa đang chảy dài xuống mặt mình. Ngữ nhìn ông cười mà không nói gì hết. Đã có một chút mặt trời lưa thưa vài chỗ ngoài bãi đậu xe, khu thương mại vẫn chưa tới giờ mở cửa. Hai người ngồi lặng thinh, không ai nói lời nào, Ngữ quen ông từ ngày hôm đó và cũng biết ông đã làm cái việc đi lượm tiền bạc cắc từ các cái xe đẩy mua hàng của siêu thị, trên bãi đậu xe của khu thương mại High Point từ lâu lắm rồi nhưng chưa hề hỏi tại sao và để làm gì.
    Từ ngày đó, Ngữ không hỏi tên hay tuổi ông mà chỉ gọi hai tiếng bác Tư. Trước ngày mất nước, Ba Mươi Tháng Tư năm Một Chín Bảy Năm, bác là xã trưởng của một xã nhỏ, thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường, gần cầu Long Định. Vợ bác có một sạp bán trái cây trong nhà lồng chợ khá đông khách. Bác có hai đứa con, một trai trạc cỡ bằng tuổi Ngữ và một gái học ở trường tiểu học quận. Cuộc sống gia đình bác lúc bấy giờ tương đối an bình dù chiến cuộc xem ra ngày càng tăng hơn trước. Quân du kích Việt Cộng thường rình mò về phá rối tại các ấp trong xa, nhất là những vùng nằm kề cận phía Mộc Hóa, Kiến Tường. Một ngày giữa tháng 3 năm 1974, Việt Cộng dùng súng cối 82 ly pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy lúc xế trưa, đúng ngay giờ đang ra chơi, giết chết 32 em trong đó có hai đứa con của bác Tư và gần 50 em khác bị thương nặng. Vợ bác cũng không may, trúng đạn chết vì mấy trái đạn pháo khác lạc qua làm sập khu đầu chợ gần trường không xa, nơi sạp trái cây bà ở đó. Cả trời Cai Lậy phủ mờ một màu tang và nước mắt trên từng nấm mộ của trẻ thơ vô tội.  Sau ngày chôn cất, bác có ý định về lại quê cũ ở Chợ Gạo, Bến Tranh nhưng trong nỗi đau mất mát tột cùng này, bác lại rơi vào tình cảnh, đi không nỡ mà ở cũng không đành. Biết là bác sẽ buồn, nhưng bác chỉ buồn có một, mà vợ con đang nằm dưới ba tấc đất kia sẽ buồn tới mười, bác không muốn người ta gọi là những nấm mồ vô chủ. Bác quyết định ở lại xã, ở lại Cai Lậy nơi bác đã lớn lên và sống một phần đời với mùi bùn của đồng chua nước mặn từ những ngày sau đó
    Miền Nam thua cuộc, cùng với nhiều người khác, bác bị bọn cầm quyền quận Cai Lậy bắt tập trung nhốt vào trại tù cải tạo ở khu Bến Đá, Mộc Hóa mênh mông trời nước, sau lần cúng giỗ đầu cho vợ con. Căn nhà bác ở cũng nhanh chóng đặt dưới quyền quản lý của họ, ngay khi bác ôm cái túi xách đựng mấy bộ quần áo bước ra khỏi cửa. Giữa mùa nước lụt hơn ba năm sau, bọn cộng sản buộc phải dời trại tù và cũng là lúc họ cho tràn bộ đội vào đất Miên, thêm hàng ngàn thanh niên buộc đi làm “nghĩa vụ quân sự”, bác cùng hai ba người bạn tù khác trốn trại trên đường di chuyển bằng ghe xuồng, trà trộn vào đám thanh niên qua được tới vùng người Việt sinh sống quanh Biển Hồ. Định mạng một lần nữa không cho bác một sự chọn lựa nào khác hơn, đành làm người thất hứa, đành phải sống mà bỏ đi, vợ con bác ở lại dưới những nấm mồ vô chủ. Đã không còn nữa nước mắt mà khóc, bác sống vất vưởng theo đó, ăn nhờ ở đậu, làm thuê làm mướn, lần mò cũng lên được tới miệt biên giới phía Bắc và cuối cùng nhập đoàn vào nhóm người vượt biên bằng đường bộ từ Sài Gòn lên vào đất Thái Lan. Ở trại tỵ nạn chưa tới hai năm, bác được một Hội Từ Thiện Tin Lành người Úc, bảo trợ đưa qua định cư ở tiểu bang Tasmania, một cái đảo nằm chếch cận Nam cực của lục địa Úc trong một ngày đầu Đông buốt lạnh.
    Không học hành nhiều, tiếng Anh tiếng u ngọng nghệu, người Việt lại không có bao nhiêu, bác Tư theo vài người mới quen từ trại tỵ nạn, trên cùng chuyến máy bay Qantas ngày qua Tasmania, bỏ nơi này vào đất liền, tìm một chỗ ở đậu nhờ trong cái nhà phụ, dựng phía sau mà người ta gọi là cái “băn-ga-lô”của ông Mục Sư Tin Lành khá già người Úc, chủ tế cái nhà thờ cây cũ kỹ nghèo nàn, ở vùng ngoại ô thành phố Ascot Vale, thuộc tiểu bang Victoria, một tiểu bang có số người Việt sinh sống đông thứ nhì và thành công, giàu có có tiếng trên xứ Úc này. Cũng may, Bác tìm được việc làm tại hảng vỏ xe hơi Dunlop sau ngày đến Melbourne không lâu, một việc làm cần tay chân, ra dấu nhiều hơn là nói năng và cũng không may, tại chỗ làm, không bao lâu, một ngày đó, khi dùng cần trục bằng điện kéo cuộn cao su lớn khoảng thùng phuy đựng dầu, để thay cho cái vừa hết, thanh sắt ngang, tuột khỏi dây xích, rớt đè đánh trúng vào ống chân, bác té quỵ, không có máu nhưng đau đớn không thể tả. Xe cứu thương đưa bác vào bệnh viện, nằm ở đó gần một tháng trời, cuối cùng bác bị gảy xương ống chân và trở thành một người tàn tật vĩnh viễn.
    Một hôm sáng sớm trời giữa Hạ, bác quen một ông già người Úc, hình như cũng bệnh hoạn lắm, quần áo cũng rách nát tả tơi, lang thang bước mất bước còn, đi lượm tiền bạc cắc, bằng cách đẩy mấy cái xe mua hàng của siêu thị xếp nối hàng vào nhau, để tiền rớt ra từ ổ khóa, trên bãi đậu xe ở công viên Barrett, khi ngồi nghỉ chân bên cạnh ông già, dưới gốc cây thông rậm bóng, chờ xe điện về nhà, trên sân cỏ úa màu trời rám nắng không xa bãi đậu xe bao nhiêu. Hai người ba xí ba tú quơ tay gục gặc nói với nhau bằng tay chân, không biết có hiểu hết những gì mình nói hay không nhưng người ta thấy họ lúc thì gật đầu, lúc thì lắc đầu, nhìn nhau cười khoái chí. Ông già người Úc, dẫn bác Tư tới chỗ mấy cái xe đẩy, chỉ cho bác làm sao lấy tiền bạc cắc ra và đưa cho bác vài đồng, vừa kiếm được sáng nay, ra dấu chỉ vào chai nước nhỏ bằng mủ mà hai người đang uống, bảo bác cầm lấy. Rồi sáng nào cũng vậy, bác cũng đến công viên, gặp ông già người Úc, hai người lầm lũi loanh quanh từ bãi đậu xe bên này đến bãi đậu xe phía bên kia đường Rosamond cho đến giờ trung tâm thương mại mở cửa. Không lâu sau ông già người Úc qua đời vì xuất huyết mạch máu não và từ đó bác Tư thui thủi một mình.

2.   
    Ngữ đi nhanh hơn thường lệ, cố nhìn quanh quất một lần nữa trong màn sương mờ mờ đục, tới gần cuối rào của bãi đậu xe, nơi giáp ranh với một khoảng đất rộng, đầy cỏ hoang khoảng chừng cái sân đá banh, bỏ trống từ mấy năm qua và con đường tráng xi măng, dùng để xe hàng loại lớn chất bỏ đồ đạc xuống cho cửa hàng bách hóa Target. Lố nhố hai ba người đứng lên ngồi xuống chỉ chỏ dưới đất, trước vĩa hè của tiệm bán máy may, dưới gốc cây to có nhiều hoa tim tím nhỏ, có cái gì đó hơi lo, Ngữ chạy vội đến, bác Tư nằm im bất động, hơi thở xem ra ngắn và từng cơn một, một hai cái xe đẩy mua hàng nằm rải rác sát bờ tường. Một trong mấy người này, người đàn bà lớn tuổi cho Ngữ biết, họ chạy bộ thể dục ngang, thấy ông đang đi té ngã xuống, nên dừng lại xem, chắc là bị “đứng tim” nên dùng điện thoại di động gọi xe cứu thương rồi. Chưa kịp hỏi thêm câu nào, thì xe cứu thương tới với tiếng còi hụ kéo dài, vang lanh lãnh cả một khu phố còn lặng im ngáy ngủ. Hai nhân viên cứu cấp, kéo băng ca, nhanh nhẹn dùng ống nghe, vừa khiêng bác lên xe vừa ra sức đè tay lên ngực bác liên tục. Theo thủ tục, với sự đồng ý của mình, họ điền tên Ngữ là người thân trên phiếu bệnh nhân, Ngữ nghe lời họ nhảy vội theo xe, tiếng còi một lần nữa ré lên, chiếc xe chạy bất kể đèn đường xanh đỏ về hướng bệnh viện Western General, bác Tư vẫn còn thoi thóp. Tới bệnh viện, người ta đưa bác vào phòng cấp cứu, Ngữ ở lại đó cho tới quá trưa, rồi ra về trong nỗi buồn cay mắt, cô y tá trực không quên xác nhận lại số điện thoại di động của Ngữ trước khi nói tạm biệt. Quá nửa khuya của ca làm đêm, bệnh viện gọi điện thoại cho Ngữ báo tin bác Tư mất trước đó chừng hơn một tiếng đồng hồ.  Ngồi bất động, có chút nước mắt vội ứa ra mằn mặn trên môi, nỗi đau dằn vặt kéo chùng lòng mình xuống, Ngữ chợt biết mình vừa khóc. Trước mặt, cái máy đúc khuôn ghế đã ngưng chạy từ lâu, Ngữ vẫn ngồi yên ở đó.
    Ông Mục Sư già người Úc đem bác Tư đi chôn tại khu đất nhỏ gọi là nghĩa địa của hội nhà thờ, có mấy cây Phượng Tím và cánh đồng hoa dại vàng rộng mênh mông, mà ông là người cai quản, ở một vùng nông thôn hẻo lánh. Đám tang chỉ có năm người vỏn vẹn, ông Mục Sư, một bà cụ già bưng đồ lễ, hai người đàn ông lo việc đào đất và Ngữ. Chờ ông Mục Sư làm dấu thánh giá kết thúc phần nghi lễ cầu nguyện, như đã nói với ông, Ngữ gom hết những gì ở cái “băn-ga-lô” gọi là của riêng bác Tư, bỏ xuống huyệt, trong đó có cái bao vải màu nâu bạc sờn nếp nhăn với tấm hình đen trắng hoen màu loang lỡ, chụp vợ chồng bác và hai đứa con trước cổng trụ sở xã với lá cờ ba sọc đỏ phía sau, hai đồng tiền cắc 50 xu của VNCH đã đen hơn phân nửa và một cái lon nhỏ đầy các đồng bạc cắc Úc mà bác đã lượm nó trong vài năm qua. Hai người đàn ông phụ việc lặng thinh, nhẫn nại cúi người đấp từng lớp đất một. Nắng trở mình, chạy dài từng vệt nhỏ về từ phía cuối cánh đồng, bóng ông Mục Sư già nghiêng theo hình cây thánh giá nằm vắt ngang nấm mộ mới đấp.


    Một lần nữa, ông Mục Sư sờ tay lên trên lớp đất cao và cái mộ bia bằng gỗ xám, làm dấu thánh giá và lâm râm đôi lời trước khi lên xe, ở đó mấy người đi theo đang chờ. Ngữ ngồi xuống, đưa tay vuốt trọn tên bác Tư trên mộ bia, thì thầm, vĩnh biệt, và cầu mong bác tư ra đi bình yên, sớm gặp lại gia đình ở nơi không còn oan nghiệt, và ở đó, bác sẽ mừng vui vô hạn, mang về cho con mình những đồng tiền bạc cắc mà bác đã chắt chiu đi lượm trên công viên Barrett. Chiếc xe hơi cũ chở người đi đám tang, nặng nề khuất dần sau hàng cây thông già ngoài đường cái.  Ở một phía xa đằng sau nghĩa địa mây kéo nhau về một màu xám ngắt, trời bất chợt nổi gió.

Thuyên Huy

   
   
   
   
   





Không có nhận xét nào: