Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

Nghề Tang Tằm và Bối Cảnh Sự Nghiệp của Ỷ Lan Phu Nhân (Nguyễn Đức Cung)



NGHỀ TANG TẰM VÀ BỐI CẢNH SỰ NGHIỆP CỦA
Ỷ LAN PHU NHÂN 

                                      Nguyễn Ðức Cung

        Văn chương bình dân Việt Nam thường hay phản ánh đường nét hiện thực của một xã hội tổ chức trên nền tảng lao động lồng trong khung cảnh của những quan hệ luân lý, đạo đức và tình thương gia đình, tỉ dụ những câu như sau:
                Mẹ ơi! Chớ đánh con đau,
        Ðể con mót lúa, hái dâu mẹ nhờ. (Ca dao)
hoặc là trong Thơ mới:
                Tằm em ăn rỗi hôm nay,
        Hái dâu em bận suốt ngày hôm qua.
                                 (Nguyễn Bính, Áo anh, 1939)

        Trong một số công việc liên quan tới nông nghiệp hay công tác nơi đồng áng nông thôn Việt Nam, các việc làm như mót lúa hoặc hái dâu, hầu như chỉ dành cho lớp người phụ nữ nghèo khổ bình dân trong xã hội. Với bốn thành phần giai cấp sĩ, nông, công, thương của xã hội phong kiến Việt Nam từ ngàn xưa, những người chuyên nghiệp mót lúa, hái dâu cũng không được xếp vào hạng nào cả trong các hạng nói trên bởi vì điều kiện vật chất của họ tương đối thấp kém. Văn chương thi phú và các hình thái nghệ thuật bác học khác trước đây cũng ít khi nhắc tới hoặc viết đến họ. Họ không được một luật lệ nào của xã hội bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của họ cả.
        Tuy nhiên, trong lịch sử Việt Nam, một nhân vật nữ xuất thân từ nghề hái dâu hèn mọn đã leo lên vị trí của một bậc mẫu nghi thiên hạ để lại tiếng thơm trong lịch sử, đó là Ỷ Lan Nguyên Phi, vợ của vua Lý Thánh Tông (1054-1072), mẹ của vua Lý Nhân-Tông (1072-1127).
        Vào thời tiền chiến ở nước ta, một số tác phẩm ít nhiều có viết về các đề tài xã hội và gần đây cái khuôn hiện thực thuộc định chế xã hội chủ nghĩa có nhắc đến với mục đích sử dụng tầng lớp nghèo của xã hội nông thôn làm đề tài trong một thể loại văn nghệ gọi là nền văn nghệ minh họa qua đó mượn họ mà đề cao một chế độ chính trị hoặc xưng tụng những kẻ cầm quyền của nền chuyên chính vô sản. Chúng ta đọc lại chuyện Ỷ Lan, một người con gái xuất thân từ nghề trồng dâu nuôi tằm để trân quý một mẫu người có nghị lực biết tìm cách vươn lên trong hoàn cảnh khó khăn, một người có tầm nhìn hiện thực và đầy viễn kiến dù sống cách chúng ta hơn mười thế kỷ.

        1.- Nghề tang tầm, nét đặc thù của nền văn hóa cần lao Việt Nam.

        Nếu cây lúa là biểu tượng cho cái ăn của người Việt Nam thì cây dâu, con tằm nói chung “tang tằm” chỉ cái mặc của tiền nhân chúng ta qua trường kỳ lịch sử. Nền văn hóa Việt Nam trước đây chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc mà trong nền văn chương Trung Quốc, cây dâu được dùng để ví von cho nhiều việc, nhiều sự kiện, tốt cũng như xấu, từ sự biến thiên thay đổi ngoài không gian đến tình tự lứa đôi giữa các cặp trai gái thời xưa, sự được thua may rủi trong cuộc đời, hình ảnh nói về cảnh quan địa lý, thậm chí đến cả kỹ thuật “chài mồi” bậc hoàng đế quân vương trong chốn tam cung lục viện của các cung nữ ngày xưa.
            Trong văn chương ta thường nghe “tang bồng” tức tang hồ, bồng thỉ: cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng. Ngày xưa tục nước Tàu hễ đẻ con trai thì dùng cung tên bằng tang và bồng bắn sáu phát lên trời xuống đất và ra bốn phương, tỏ ý người con trai sẽ có công việc ở thiên địa tứ phương. Vì thế người ta dùng chữ tang-bồng hồ-thỉ mà tỏ chí khí của nam nhi. 1 Liên hệ đến tình cảm gia đình, người Trung Quốc dùng hai chữ tang và tử (cây dâu và cây thị qua kinh Thi với câu “Duy tang dữ tử, tất cung kính chi” ý nói cây tang, cây tử là của cha mẹ trồng, mình nhớ đến nó thì sinh lòng cung kính. Sau vì thế mà nói tang-tử là nơi quê nhà.
         Trong văn học Trung Quốc, người ta thường nói “thương hải biến vi tang điền” hay ngắn gọn là “tang hải” chỉ sự đổi thay trong ngoại cảnh không gian (biển xanh hóa thành ruộng dâu). Thành ngữ “Bộc thượng tang gian” nói về tích xưa con trai nước Trịnh và con gái nước Vệ, thời Xuân Thu, hẹn nhau ra vườn dâu trên bờ sông Bộc để tư tình. Một điển tích khác nói rằng quan Thái Sử vua Trụ hay đàn bản dâm cho vua nghe. Sau ông trầm mình chết ở sông Bộc, lưu truyền lại cho dân-cư tại đó những bản đờn dâm. 2 Trong Kinh Thi của Trung Hoa, bài “Tang Trung” có câu : “Kỳ ngã vu tang trung” (hẹn với ta ở trong bãi dâu) cười chê con trai con gái hẹn nhau làm việc dâm bôn. “Tang trung chi lạc” nghĩa là “cái vui ở trong ruộng dâu” tức chuyện trai gái cẩu hợp.
            Trung Quốc có chữ tang du. Sách Tàu xưa truyền rằng ở góc biển Tây có cây tang-du, mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta nói cảnh tượng người già gần chết, thì nói rằng tang-du vãn-ảnh. Như vậy tang-du là phương tây nên còn có câu “ Thất chi đông ngung, thu chi tang du” nghĩa là mất ở góc đông, thu lại góc tây, ý nói mới ra lầm lỡ sau lại đền bù được vậy 3. Ở Trung Quốc, trong thời cổ, người dân không được phép trồng cây lớn trong ruộng, sợ mất đất trồng lúa, nhưng được phép trồng dâu, rau, trái cây chung quanh mỗi nhà, có lẽ cũng vì những lợi ích thực tiễn, ngắn ngày của chúng.
        Trong văn chương bác học Việt Nam, qua tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, Ðặng Trần Côn đưa vào đó hình ảnh cây dâu có lẽ cũng rất quen thuộc với xã hội nông thôn Việt Nam, phản chiếu bóng dáng của một “thương hải biến vi tang điền” đậm đặc nét Trung Quốc trong ý nghĩa điển tích:
            Tương cố bất tương kiến,
         Thanh thanh mạch thượng tang,
            Mạch thượng tang, mạch thượng tang…
        Thiếp ý quân tâm thùy đoản tràng.

            Ðoàn Thị Ðiểm (?) đã dịch là:
            Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
         Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
            Ngàn dâu xanh ngắt một mầu,
         Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? 4

            Cụm từ mạch thượng tang (mạch: đường nhỏ, đường bờ ruộng) 5  được tác giả sử dụng kỹ thuật điệp ngữ để tạo ra hình ảnh trùng trùng điệp điệp ngàn dâu xanh trong văn bản chữ Hán vẫn được dịch giả tài tình diễn lại trọn tình, trọn ý trong bản Nôm!
        Trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đã mượn điển tích của văn học cổ Trung Hoa nói về người cung nữ rải lá dâu trước cửa phòng để dụ xe dê chở vị hoàng đế đi qua, dừng lại phòng mình để mong lọt mắt xanh đấng cửu trùng:
                        Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.
            Kiếp tằm vương tơ, biểu tượng số mệnh của người nghệ sĩ, vốn là điều ai cũng biết nhưng tìm nguồn gốc ví von này cũng không đơn giản. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ. Từ đó biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn nói đến thân phận tằm cũng để nói lên số kiếp của mình.

        Trong văn chương bình dân nước ta, chúng ta cũng đọc thấy những vần điệu về nghề tằm tang như sau:
         Trời mưa lác đác ruộng dâu,
         Cái nón đội đầu, cái thúng cắp tay.
        Bước chân xuống hái dâu này,
        Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ.
        Thương em chút phận ngây thơ,
        Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng…
Hoặc là:
            Sáng ngày ta đi hái dâu,
        Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
            Hai anh đứng dậy hỏi han,
        Hỏi rằng: Cô ấy vội vàng đi đâu?
        - Thưa rằng tôi đi hái dâu,
        Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
        - Thưa rằng bác mẹ tôi răn,
        Làm thân con gái chớ ăn trầu người.

        Trong sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho biết văn minh tằm tang là của người phương Nam truyền ngược lên phương Bắc : “Trong những di chỉ khảo cổ thuộc Hậu Kỳ Đá Mới cách nay khoảng 5.000 năm (như di chỉ Bàu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Ðến giai đoạn Ðông Sơn (cách nay khoảng 3.000-2.500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang – đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa đã luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: Ðó cũng chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân [Kim Ðịnh 1971a: 108]; trong chữ “Man”mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm.” Và tác giả này trích dẫn: “Từ phương Nam, nghề tằm tang đã được đưa lên phương Bắc. Sách Hoàng Đế Nội Kinh của TrungQuốc nói về việc này một cách hình tượng là “Khi Hoàng Ðế chặt đầu Si Vưu thì thần Tằm Tang dâng lụa cho ông”(hiểu là: khi bộ lạc phương Bắc do Hoàng Ðế làm thủ lĩnh chiến thắng bộ lạc phương Nam do Si Vưu làm thủ lĩnh, thì người phương Bắc tiếp thu được bí quyết nghề trồng dâu nuôi tằm của người phương Nam). Các sách cổ Trung Quốc như Thủy Kinh Chú, Tam Đô Phú, Tề Dân Yếu Thuật… đều nói rằng đến đầu Công Nguyên, trong khi ở Trung Quốc một năm chỉ nuôi được 3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm Ấp (Chăm-pa) một năm đạt được tới 8 lứa.” 6  Nói như vậy có cường điệu phần nào chăng? Có thể là như vậy. Vả lại nền văn minh Ðại Việt tiên vàn là nền văn minh Hán hóa và các tầng văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn rồi Ðông Sơn có thật sự là nền văn minh Việt Nam hay của dân sở tại thuộc giống Indonésien hay Mélanésien mà hậu duệ ngày nay là người Mường7, một vấn đề đã được sử gia Nguyễn Phương, Giáo Sư Sử Học Viện Đại Học Huế nghiêm túc trình bày cách đây hơn bốn thập kỷ? 
        Năm 1092, trong bước đầu củng cố và phát triển chế độ quân chủ tập quyền, nhà Lý tiến hành lập địa bạ lúc đó gọi là điền tịch trong đó xác nhận địa phận làng xã, kê rõ diện tích ruộng đất làng xã, phân loại phẩm chất đất, phân loại theo cây trồng như trồng lúa, trồng dâu, trồng mía và như vậy nghề trồng dâu đã được minh định trên sổ sách giấy tờ từ rất lâu cách nay mười thế kỷ.8 Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, gọi tắt là Cương Mục, sau khi đánh thắng Hai bà Trưng, “vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập thành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái tổ kén, nên gọi là thành Kiển Giang.” Lời chua sách Cương Mục tiếp đó chép: "Theo Ðại Thanh Nhất Thống Chí, Thành Kiển Giang, thành Vọng Hải đều ở huyện An Lãng. Khoảng năm Kiến Vũ (25-56), trong khi Mã Viện nhà Hán sang bình Giao Chỉ, đắp hai thành ấy ở huyện Phong Khê và huyện Vọng Hải.”9  Kiển là cái kén tằm, tức là cái tổ của con tằm nó tự nhả tơ ra để che mình nó. Như vậy từ thế kỷ I sau Công Nguyên, nghề tăng tằm hay ít nhất ý niệm về nghề này cũng mới được truyền vào nước ta qua công trình kiến thiết thành lũy của Mã Viện, vị tướng nổi danh của phương Bắc. Việc Mã Viện dùng danh từ Kiển Giang để gọi kiến trúc phòng bị mới xây hoặc là vì cấu trúc chung của thành có hình giống cái tổ kén mà đặt tên về sau hoặc sơ đồ dự án xây cất dựa trên ý niệm thời thượng lúc bấy giờ trong một xã hội mà việc tang tằm mới được du nhập và cổ xúy ở nước ta.
        Như một quy luật của lịch sử, các con sông lớn ở Việt Nam cũng như các con sông khác trên thế giới thường tạo nên một số các nền văn minh quốc gia. Thí dụ ở Trung Quốc có hai sông Hoàng Hà và Dương Tử tạo ra nền văn minh Trung Quốc. Ở Cận Ðông và Lưỡng Hà Ðịa là văn minh của Mesopotamia thuộc hai sông Tigris và Euphrates. Ở Ai Cập, có văn minh sông Nile. Các sông lớn ở Bắc Mỹ như Mississipi, Amazone hoặc các sông ở Pháp như Rhône, Garonne, Rhin v.v… cũng từng giữ những vị trí quan trọng trong đời sống người dân ở các vùng đất chúng chảy qua. Ở Việt Nam, nói đến văn minh sông Nhị Hà, người ta thường gọi văn minh sông Hồng, hay ở trong Nam thì gọi văn minh Nam bộ hay văn minh miệt vườn, có khi gọi là văn minh sông Cửu Long.
        Do việc những bãi đất tân bồi của sông ngòi xứ Bắc như bờ bãi sông Hồng, sông Thái Bình, sông Thương là những vùng đất lý tưởng đối với việc trồng dâu nên đã khiến nghề trồng dâu nuôi tằm trở thành một công nghệ gia đình phổ biến với diện tích độ từ 14.000 đến 15.000 héc-ta.10 Tại miền Trung, đất hẹp người đông, nhiều sông ngòi nên dân địa phương đã tranh thủ các vùng đất bồi từ các sông thuộc rặng Trường Sơn phía tây đổ về để phát triển nghề trồng dâu với một quá trình lịch sử cũng lâu đời như miền bắc và tơ tằm của ta ngay từ thời Lê mạt đã cạnh tranh rất đắc lực với tơ tằm Nhật và Trung Hoa.
                Ở Quảng Bình, dọc theo hữu và tả ngạn sông Gianh ở ba nguồn sông là Nguồn Nậy, Nguồn Son và Nguồn Son có nhiều làng chuyên trồng dâu, dệt vải, dệt lụa như Thuận Bài, Thổ Ngọa v.v… Quảng Nam có sông Thu Bồn, Quảng Ngãi có sông Trà Khúc, sông Vệ, sông La-châu với những bãi đất mới ven sông do các trận lụt thường niên bồi đắp, nông dân từ đời này sang đời khác tranh thủ biến thành ruộng lúa, nương dâu. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có khi được dùng để đan lưới rất chắc. Các vùng đất thuộc lưu vực các sông ở Bình Ðịnh như sông Vực-lấm, sông Ðà-bàng, sông An-lão, sông Kim-sơn thuộc tỉnh Bình Ðịnh, lưu vực sông Ðà-Rằng thuộc tỉnh Phú Yên cũng có nhiều vườn dâu vì cây dâu ưa loại đất xôm xốp có thấm nước. Tơ lụa ở huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) cũng nổi tiếng khắp nước, và dĩ nhiên nỗi vất vả còn theo mãi với cuộc sống người dân quê ở đây.
            Ai về qua phố Hội An
         Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
(Trần Trung Ðạo, Lụa Duy Xuyên).
Hay là:
            Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
        Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
            Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
        Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ.
       (Trần Trung Ðạo, Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng).

        Nói chung toàn bộ các tỉnh miền trung có khoảng 6.500 héc-ta vườn dâu. 11
        Ở miền Nam, Trần Văn Giàu đã khái quát hóa khi cho rằng “trước khi Tây đến, nghề trồng dâu để tằm khá thịnh đạt; rất nhiều làng có những “xóm lụa”, “xóm lãnh”, “xóm cửi”. Vĩnh-long là một chợ quan trọng mua bán tơ, Sa-đéc, Bến-tre, Hà-tiên, Châu-đốc, Long-thành, Thủ-dầu-một, xưa kia đều thịnh vượng về nghề tằm tang lụa vóc. Nhưng đến sau 1914-1918 thì hầu như Nam-kỳ không còn có nghề trồng dâu để tằm đáng kể nữa. Ðó là vì vải nước ngoài do Pháp đem vào cạnh tranh làm cho nghề trồng dâu để tằm, dệt lụa chết sạch. Nay (sau 1914-1918) chỉ còn có ở Tân-châu, Chợ-mới, Ba-tri, Cai-lậy, An-hóa. Từ năm 1920 đến 1927 chỉ có 450 éc-ta trồng dâu thôi; từ 1927 diện tích trồng dâu có lên, năm 1930, Nam-kỳ có 1.200 éc-ta trồng dâu.” 1
            Dựa theo tài liệu của nhà đương cuộc Pháp trong Niên Giám Ðông Dương, Nguyễn Phan Quang đã viết khá đầy đủ về nghề tằm tơ. Theo ông vào những năm cuối thế kỷ XIX cây dâu được trồng phổ biến ở Nam Kỳ. Mỗi gia đình trồng dăm gốc dâu để nuôi tằm, nhưng nghề trồng dâu với quy mô lớn thì chưa thành hình. Giống dâu trồng phổ biến ở tỉnh Gia Ðịnh là dâu tàu (gốc Trung Hoa), cho nhiều lá, thân cây rất cao. Ngoài ra còn giống dâu sẻ, thích nghi với đất bùn, thu được ít lá. 13  Căn cứ theo phúc trình của Công Sứ tỉnh Gia Ðịnh, trong Chiến Tranh Thế Giới lần thứ nhất, ở Gia Ðịnh rất ít người nuôi tằm ươm tơ, chỉ thấy lác đác một số gia đình ở An Thạnh, Long Tuy Hạ và Bình Trị Thượng. Sau Chiến Tranh Thế Giới lần thứ nhất, diện tích trồng dâu ở Nam Kỳ có tăng thêm. Tổng diện tích trồng dâu năm 1924 là 438 ha; trong đó nhiều nhất là Châu Ðốc (300 ha), Bến Tre (100 ha).14  Tư liệu của Nguyễn Phan Quang cho biết ở Nam Kỳ lá dâu có thể thu hoạch quanh năm, còn ở Bắc Kỳ chỉ thu hẹp trong ba tháng mùa đông.15 Nói chung toàn quốc có khoảng 20.000 hécta đất để trồng dâu.
            Nghề tằm tang vốn là một nghề phụ của nông nghiệp nhưng đặc biệt lại là nghề riêng của đàn bà con gái. Trong các gia đình Việt Nam ngày xưa, việc cày sâu cuốc bẩm vốn để cho cánh đàn ông con trai vốn vai u thịt bắp, có sức khỏe chịu đựng được mưa nắng còn nghề hái dâu, chăn (nuôi) tằm thường để cho con gái bình dân nơi thôn xa, kể cả con gái nhà khá giả vốn cần mẫn, chịu thương chịu khó với nghề nghiệp của mình. Ðàn bà, con gái Việt Nam sẵn khéo tay lại siêng năng, tỉ mỉ, chu đáo nên khá thích hợp với nghề đó. Nhiều người xác nhận đây là một nghề rất vất vả cực nhọc (Làm ruộng ba năm  không bằng chăn tằm một lứa; Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng). Kinh nghiệm nghề nghiệp cho biết từ tơ tằm, người Việt chúng ta ngày trước đã từng dệt nên nhiều loại sản phẩm khác nhau như: tơ, lụa, lượt, là, gấm vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, đũi, địa, nái, sồi, thao, vân…
        Nhà thơ Nguyễn Bính đã từng nhắc nhở như là những vật thể kỷ niệm:
                        Nào đâu cái yếm lụa sồi?
            Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
                        Nào đâu cái áo tứ thân?
            Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?

            Trong tác phẩm Việt Nam Phong Tục, Phan Kế Bính đã viết rất chi tiết về cách nuôi tằm và cách ươm tơ với những đoạn trích dẫn như sau:
            “Cách nuôi tằm trước hết mua trứng ngài treo để chỗ mát cho nó nở ra các con sâu nho nhỏ rồi bỏ vào nong, lấy lá dâu thái thực nhỏ như sợi thuốc lào, rắc vào nong cho nó ăn. Mỗi ngày phải cho ăn độ ba mươi sáu hoặc bốn mươi tám lần, ít nhất cũng phải hai mươi sáu lần. Cho ăn như thế độ một tuần lễ, rồi thái to hoặc để cả lá mà cho ăn mỗi ngày độ năm sáu lần. Nuôi cho đến khi thấy con tằm vàng ánh bụng ra thì bắt nó lên né cho nó kéo tơ làm tổ, gọi là quả kén.
        Cứ hai mươi bốn ngày hoặc một tháng thì được một lứa tằm. Nhà thường thường mỗi lứa nuôi vài chục nong, nhà giầu nuôi đến hàng trăm nong.
            Nuôi tằm phải làm một phòng riêng hoặc phải làm riêng một cái nhà. Nền nhà phải cao cho khỏi ẩm thấp. Nhà phải kín và bốn mặt đều phải có cửa, thường thường phải mở cửa cho thông khí. Giời nóng phải mở cho mát, giời rét phải đóng cho ấm.
        Phải giữ gìn đừng cho ruồi nhặng đậu vào con tằm. Nếu để ruồi nhặng đậu vào thì sinh ra bọ mà hại kén về sau. Lại phải giữ chuột vì chuột hay ăn tằm lắm.
            Nuôi tằm kiêng nhất là hơi người chết. Nếu phạm phải hơi ấy thì tằm giã nước mồm ra, ăn kém, không kéo được ra tơ mà làm thành kén nữa.
        Lại kỵ nhất là gió tây. Hễ mùa bức động có gió tây thì tằm chết nhiều, nên phải che kín chiều gió ấy mà mở cửa khác cho mát.”



            Ngòi bút của Phan Kế Bính lướt vào lãnh vực ươm tơ từng chi tiết như độ nóng của nước, cách bỏ kén vào nồi ươm, cái cần để bắt chéo mối tơ v.v… và kết luận: “Nghề nuôi tằm và nghề làm ruộng đều là nghề nghiệp căn bản rất hệ trọng cho việc sinh nhai và lại rất khó nhọc hơn cả mọi nghề, nước nào, thì cũng phải trọng hai nghề ấy làm cốt. Nước Tàu và nước ta, nhà vua cũng phải có ruộng tịch điền, có nhà tàm thất, vua thì phải thân canh, bà hoàng hậu thì phải chăn tằm để làm gương cho thiên hạ, cũng là ý trọng nghề căn bản đấy thôi.”16         

2.- Một bậc anh thư nổi tiếng trong lịch sử xuất thân từ nghề hái dâu. 



      Dưới thời các vua nhà Lý, chính sách  trồng dâu nuôi tằm được triều đình khuyến khích, đặc biệt Lý Thánh Tông thường “khuyên dân làm ruộng trồng dâu, chẩn cấp kẻ bần cùng, chấn chỉnh việc văn, xét duyệt võ bị, các chính sự tốt, trong sử chép luôn luôn.”17  Thời Lý Thần Tông (1128-1138), nhà vua cho lập tại chùa Kim Liên một cung điện để công chúa Từ Hoa dạy dân trồng dâu nuôi tằm, thuở ấy mang tên là trại Tằm Tang.18  Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XI cung cấp mẫu chuyện về một người con gái xuất thân từ nghề hái dâu lại trở thành hoàng hậu, một bậc “mẫu nghi thiên hạ” đã để lại một số nghi án trong lịch sử. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư gọi tắt Toàn Thư chép như sau:
        “Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi Hậu Nội Nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan Phu Nhân có mang, sinh hoàng tử Càn Ðức tức Nhân Tông. (Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, nhân đi chơi khắp các chùa quán. Xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ đứng nép trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm Ỷ Lan Phu Nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh Chúa. Nhà sư dạy cho Bông thuật đầu thai thác hóa, Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là Ðồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Ðồng Bông ở phía tây trước cửa chùa, nay hãy còn). 19     
     Trước hết, sự kiện cần được cẩn án lại đó là tên họ thực sự của người con gái hái dâu dựa trên một số tài liệu của quốc sử quán (chính sử) và sử liệu tư nhân (dã sử). Ông vua mà Toàn Thư vừa đề cập tới ở trên là Lý Thánh Tông, con trưởng của Lý Thái Tông, mẹ là Kim Thiên Thái Hậu họ Mai, lên ngôi năm 1054, tại vị 17 năm, mất năm 1072. Ða số các tư liệu Việt Nam chỉ đề cập đến nhân vật nữ này với cái tên là Ỷ Lan Phu Nhân (dựa vào cây lan).  Cương Mục ghi mẹ đẻ của Thái tử Càn Ðức (hay Kiền Ðức) là Ỷ Lan Nguyên Phi và không rõ họ là gì.20  Trong Việt Sử Tiêu Án,  Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ có ghi: “Vua mất, miếu hiệu là Thánh-Tôn, Thái-tử lên nối ngôi vua, mới 7 tuổi, mẹ đẻ là Ỷ-Lan Lê-Thị.” 21 Như vậy, Ngô Thời Sỹ đã biết rõ họ của bà Ỷ Lan nhưng không ghi tên thật mà chỉ để Lê-Thị, vì theo lối viết sử trước đây, khi gặp nhân vật nữ người ta chỉ được phép ghi họ mà thôi.
            Trong tác phẩm Lý Thường Kiệt, Lịch Sử Ngoại Giao & Tông Giáo Triều Lý, học giả Hoàng Xuân Hãn có dẫn sách Mộng Khê Bút Ðàm của Thẩm Hoạt đời Tống viết rằng “Nhật Tôn (Thánh Tông) mất, Càn Ðức lên, chọn hoạn quan Lý Thường Cát và mẹ Lê Thị Yến Loan Thái Phi cùng coi việc nước.” 22  Như vậy Ỷ Lan Phu Nhân,  mẹ của Lý Nhân Tông, có tên là Lê Thị Yến Loan.
        Nếu chúng ta không đặt thành vấn đề việc một thiếu nữ không thèm ra đón nhìn xa giá là chuyện thật hay hư cấu thì sự kiện đó cũng là một việc khác thường. Hoặc là vì người con gái hái dâu kia thủ phận, không dám đua đòi với các chị em chung quanh, hoặc là vì nàng coi khinh mọi đối nhân, đối tượng dù đó là vị vua chúa giàu sang, quyền thế, mà trong đầu óc nàng đã xây dựng một mẫu người tình lý tưởng khác hay đang nghĩ vẩn vơ về một chuyện nào đó mà lơ là đối với sự kiện quan trọng kia chăng?
            Toàn Thư ghi thêm : “Ðổi hương Thổ Lỗi làm hương Siêu Loại, vì là nơi sinh của Nguyên Phi.” 23 Theo Trần Trọng Kim, làng này sau còn đổi là Thuận-quang  có lẽ vì để tránh trùng tên với huyện Siêu-Loại cũng thuộc tỉnh Bắc Ninh (nay là tỉnh Hà Bắc) chăng? 24  Hoàng Xuân Hãn cho biết : “Làng là bởi chữ hương mà dịch ra. Nhưng hương không phải một làng nhỏ như bây giờ. Từ đời Tần, nước Trung Quốc chia ra từng quận. Quận chia thành huyện. Huyện chia thành hương. Hương chia thành đình. Ðình chia thành Lý. Tuy đời sau có đổi chế độ ít nhiều. Nhưng Hương vẫn là phần của huyện. Lúc nước ta thuộc Bắc, nước thành quận, cũng bị chia ra châu hay huyện. Vậy chế độ hương  có từ đời ấy. Mà hương là lớn như một tổng lớn đời sau.”25  Việc đổi tên làng từ Thổ Lỗi ra Siêu Loại là một sự kiện khá đặc biệt trong lịch sử, có lẽ chịu ảnh hưởng của một tục lệ thời thượng (đổi tên) từ tên mới của kinh đô là Thăng Long chăng? Dưới thời nhà Nguyễn, khi viết về quê hương của Nguyễn Kim là làng Gia-Miêu (Gia Miêu ngoại trang) và huyện Tống-Sơn, Quốc Sử Quán thường viết là quý hương và quý huyện để tỏ lòng kính trọng (kị húy) chứ không đổi ra tên khác.
        Lúc này mọi quyền hành thu vào trong tay Thái Hậu Dương thị và Thái Sư  Lý Ðạo Thành.
            Cương Mục chép: “Tháng giêng, mùa xuân, Lý Thánh Tông mất. Nhà vua mất ở điện Hội Tiên; đặt tên thụy là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông, ở ngôi 17 năm, thọ 50 tuổi.
        Thái Tử Kiền Ðức lên ngôi, đổi niên hiệu mới (tức là Lý Nhân Tông).
            Tôn mẹ già (đích mẫu) là Thượng Dương Thái Hậu Dương Thị làm Hoàng Thái Hậu, mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên Phi (không rõ họ là gì) làm Hoàng Thái Phi. Thái Hậu buông mành, ngồi bên trong, nghe bầy tôi tâu bày và quyết đoán mọi việc chính sự. Nhà vua mới bảy tuổi, Thái Hậu buông mành cùng tham dự chính sự. Thái Sư Lý Ðạo Thành làm Phụ Chính.”26   Thái Phi dĩ nhiên không có quyền hành cho bằng Thái Hậu. Vai trò của Thái Hậu lúc bấy giờ là “buông mành”, nghĩa là bắt chước quy luật của Trung Quốc, tức “thùy liêm thính chính” (buông rèm ngồi bên trong mà nghe việc nước). Trong triều đình nhà Lý lúc bấy giờ, quyền hành thuộc về bà Thái Hậu họ Dương và Lý Ðạo Thành. Biết mình lâm vào thế yếu nên dĩ nhiên Thái Phi phải tìm cách liên kết với một lực lượng để tranh đoạt quyền hành, đó là phe nhóm của Lý Thường Kiệt lúc bấy giờ đang cầm quân đội.
         Toàn Thư trước đó chép rằng: “Thiên Huống Bảo Tượng năm thứ 2 [1069]. (Từ tháng 7 về sau là niên hiệu Thần Vũ năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 2). Mùa Xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên Phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa hợp, trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: “Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao!” Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.”27 Vua Tự Ðức trong lời phê ở sách Cương Mục cho rằng không thể có việc bà Nguyên Phi cầm quyền trị nước thay vua Lý Thánh Tông trong cuộc đánh Chiêm Thành năm 1069 vì lúc bấy giờ Thái Hậu “buông rèm nghe việc nước” nghĩa là nắm mọi quyền hành và Nguyên-phi chỉ là một bóng hình mờ nhạt. Chính sự kiện này đã khiến cho Ỷ Lan Nguyên Phi sinh bất bình. Cương Mục chép rằng: “Thái Phi thấy một mình Dương Thái Hậu được tham dự chính sự, đem lòng bất bình, nói với vua rằng: “Mẹ đây khó nhọc mới có ngày nay, bây giờ để cho người khác ngồi hưởng phú quý, thì đặt mẹ ở địa vị nào?” Nhà vua còn nhỏ tuổi, không biết phân biệt thế nào là phải, bèn giam cầm Dương Thị ở cung Thượng Dương, bắt ép phải chết để chôn theo ở lăng vua Thánh Tông, rồi tôn Thái Phi làm Hoàng Thái Hậu.”28
        Sự việc này xảy ra phải có tay Lý Thường Kiệt giúp sức để tranh đoạt lại quyền hành. Vua Lý Nhân Tông, sau khi lên ngôi được bốn tháng, đã giết Thái Hậu Dương Thị và giáng truất Thái Sư Lý Ðạo Thành xuống làm Tả Gián Nghị Đại Phu, cho ra làm Tri Châu Nghệ An. Theo Toàn Thư, Dương Thị bị bức tử cùng với 76 người thị nữ khác, có tài liệu nói 72 người, vì thế về sau Ỷ Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội. Lý Ðạo Thành ra Nghệ An lập viện Ðịa Tạng, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh Tông để thờ cũng ngầm bày tỏ ý phản đối. Lúc bấy giờ Lý Thường Kiệt chuyên nắm mọi binh quyền cùng Thái Phi được tôn lên làm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Sở dĩ người ta không dám thủ tiêu Lý Ðạo Thành mà chỉ biếm vào Nghệ An là bởi họ Lý là một trọng thần, cao tuổi, đạo đức, được nhiều người nể phục nên phe Thường Kiệt – Ỷ Lan không dám động thủ, sợ hậu quả bất lường có thể xảy ra.
            Vua Lý Nhân Tông gia phong cho Lý Thường Kiệt chức Ðôn Quốc Thái Úy, Ðại Tướng Quân, Ðại Tư Đồ và ban cho hiệu Thượng Phụ Công. Nhưng lúc bấy giờ, khoảng năm 1074, Chiêm Thành lại bắt đầu quấy phá vùng biên giới và dọc biên thùy miền Bắc nhà Tống cũng sửa soạn cuộc động binh. Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt (có lẽ cũng với sự đồng ý của Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu) đã cho mời Lý Ðạo Thành từ Nghệ An trở về, giữ chức Thái Phó, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, hợp tác với Lý Thường Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để Thường Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống nhau với quân nhà Tống, xóa tan sự bất mãn trong triều.
        Người con gái hái dâu năm nào bây giờ là Thái Hậu, tuy đầu óc còn vương vấn một số thủ đoạn chính trị do tham vọng tranh đoạt quyền bính nhưng tấm lòng cũng còn biết lo lắng cho cuộc sống người dân ở nông thôn. Cương Mục ghi rằng: “Tháng 3, mùa Xuân. Nhà vua đi Ứng Phong xem xét việc cày ruộng. Mùa Xuân, dân cày ruộng công. Nhà vua đến hành cung Ứng Phong để xem xét. Từ đấy, xem cày, thăm gặt là việc thường hàng năm. Thái Hậu nói với nhà vua rằng: “Luật lệnh về việc trộm trâu thi hành đã lâu. Gần đây, những người trốn tránh ở kinh thành, hương ấp, phần nhiều làm nghề trộm trâu; mà sự giết thịt trâu lại càng quá lắm. Hiện nay, vài nhà nông dân mới có một con trâu, thì nhờ vào đâu mà đủ sinh sống?”Nhà vua cho là phải; xuống chiếu, phàm những kẻ trộm trâu hay là giết trâu thì cả vợ lẫn chồng đều phải phạt 80 trượng, bị tội đồ và bồi thường trâu; người láng giềng không cáo tỏ phải phạt 80 trượng.”29
        Ý kiến của Ỷ Lan đã tỏ ra thích ứng với thực tế cuộc sống của người nông dân Ðại Việt nên được vua Lý Nhân Tông chấp thuận. “Tháng 7 mùa Thu, Linh Nhân Hoàng Thái Hậu mất. Tháng 8 làm lễ an táng Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Làm lễ hỏa táng. Lấy ba người hầu gái đem tuận táng. Ðặt tên thụy cho Hoàng Thái Hậu là Phù Thánh.”30 
    Nhận định về hành động của bà Nguyên Phi giết Dương Thái Hậu, sử gia Ngô Sĩ Liên đã hạ bút : “Giam cầm giết chết Dương Hậu là một tội lớn. Ðạo Thành bị giáng ra trấn thủ ở ngoại châu, biết đâu không phải vì cớ đã nói đến việc đó.”31  Trong mục đích gỡ tội ít nhiều cho Ỷ-Lan,  Hoàng Xuân Hãn nhận rằng: “… đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ Lan mất (1117), có ba thị nữ chết theo (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân Tông mất (1127) cũng có cung nữ lên giàn lửa để chết theo vua (TT).”32 Việc Dương Thái Hậu bị giam cầm và bị giết  xảy ra bốn tháng sau khi Lý Thánh -Tông chết nên cũng khó mà ghép sự kiện bức tử đó vào với một tục lệ (tuận táng tức là lấy người sống chôn theo người chết) vốn có trong triều đình nhà Lý thời trước. Vả lại, tục lệ này vốn là của Trung Quốc. Trong sách Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê cho biết: “Người ta khai quật được một số mộ các vua chúa đời Thương thấy ông vua nào chết cũng có nhiều người bị chôn sống theo. Nhà Chu bỏ tục đó và cả tục giết người để tế thần nữa. Những người bị chôn sống theo vua được thay bằng những tượng gỗ, đá. đồng… Rồi những đời sau lại thay bằng những bộ đồ vàng mã. Tục này truyền qua nước ta, ngày nay mà vẫn chưa bỏ được. Sự mê tín sống dai thật!”33     
        Vào triều đại nhà Lý (thế kỷ XI-XII), nước ta sống trong ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo nên triều đình nhà Lý từ vua quan đến hoàng thân quốc thích đều thấm nhuần tinh thần từ bi, hỉ xã của tôn giáo lớn này. Nguyên Phi Ỷ Lan tuy có tham vọng quyền bính nhưng cũng phải nằm trong giới hạn của luật lệ quốc gia và tôn giáo mà thôi, không thể làm được những chuyện kinh thiên động địa như Vũ Tắc Thiên (624-705) hay như Từ -Hy Thái Hậu ở Trung Quốc. Cô gái hái dâu ngày nào đã tìm lại được bản thể chân diện mục của mình, đó là tính đôn hậu chơn chất của một người con gái quê, và có lẽ vì hối hận nên đã ra lệnh xây 72 ngôi chùa để ngày đêm tụng kinh siêu độ cho những thị nữ của Thái Hậu họ Dương (có thể kể cả cho vị Thái Hậu bất hạnh này nữa) đã bị ép bỏ mình chết theo vua Lý Thánh Tông qua một cổ tục đã lỗi thời hay dưới kế hoạch thanh toán đối thủ chính trị do Ỷ Lan Nguyên Phi đề ra? 

                                            Nguyễn Ðức Cung

Chú Thích:
        1.- Ðào Duy Anh, Hán Việt từ-điển, Nxb. Trường-Thi, in lần thứ ba, Sài-gòn, 1957, trang 233.
         2.- Diên Hương, Tự điển thành-ngữ, điển-tích, Nxb, Zieleks, bản in lần thứ tư, 1981, trang 49.
          3.- Thiều Chửu, Hán Việt tự-điển, Cơ sở xuất bản Ðại-Nam, bản in lần thứ hai, trang 297.
         4.- Xưa nay nhiều người cho rằng dịch giả bản Chinh Phụ Ngâm bằng chữ Nôm là của Ðoàn Thị Ðiểm, nhưng với Hoàng Xuân Hãn và Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương dịch phẩm này là của Phan Huy Ích. Chúng tôi cho rằng luận cứ của hai vị học giả họ Hoàng và họ Nguyễn có phần đúng hơn.
            5.- Ðào Duy Anh, Hán Việt từ điển, trang 540).
           6.- Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Viêt Nam, Nxb. Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, bản in lần thứ tư, 2004, trang 376).
            7.- Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Phòng nghiên cứu Sử, Viện Ðại Học Huế xuất bản, 1964.
          8.- Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn, bài Ðịa bạ cổ ở Việt Nam, Tập I,  Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội, 1998, trang 231.
            9.- Viện Sử Học, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Quốc Gia, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập I, Nxb Giáo Dục, 1998, trang 118).
        10.- Trần Văn Giàu, Trần Văn Giàu Tuyển Tập, Nxb. Giáo Dục, 2000, trang 686.
        11.- Trần Văn Giàu, Sách đã dẫn, trang 686.
        12.- Trần Văn Giàu, Sđd, trang 686.
        13.- Nguyễn Phan Quang, Theo Dòng Lịch Sử Dân Tộc, Nxb. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004, trang 841.
        14.- Nguyễn Phan Quang, Sđd, trang 841.
        15.- Nguyễn Phan Quang, Sđd, trang 844.
        16.- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Xuân Thu xuất bản, không đề năm in, trang 256.
        17.- Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ trong Ngô Gia Văn Phái, Việt Sử Tiêu Án, Văn Sử tái bản, không đề năm in, trang 126.
       18.- Mai Thục, Tinh Hoa Hà Nội, Văn Hóa xuất bản, trang 155.
        19.- Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, tập I, Hà Nội , 1998, trang 273.
        20.- Cương Mục, Sđd, trang 346.
        21.- Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ, Sđd, trang 128.
        22.- Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Lịch sử ngoại giao & tông giáo triều Lý, Nhà xb. Quân Ðội Nhân Dân, Hà Nội, 2003, trang 46).
        23.- Toàn Thư, Sđd, trang 274.
       24.- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, bản in lần thứ bảy, Sài Gòn, 1964, trang 103.
        25.- Hoàng Xuân Hãn, Sđd, trang 50.
        26.- Cương Mục, Sđd, trang 346.
        27.- Toàn Thư, Sđd, trang 274.
        28.- Cương Mục, Sđd, trang 348.
        29.- Cương Mục, Sđd, trang 369.
        30.- Cương Mục, Sđd, trang 370.
        31.- Cương Mục, Sđd, trang 348.
        32.- Hoàng Xuân Hãn, Sđd, trang 47.
        33.- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ, 2003, trang 90.


       

















Không có nhận xét nào: