Thứ Ba, 19 tháng 1, 2016

Linh Mục Cao Văn Luận và Lý Tưởng Lương Sư Hưng Quốc Trong Đạo Kẻ Sĩ (Nguyễn Đức Cung)



LINH MỤC CAO VĂN LUẬN (1908-1986)
VÀ LÝ TƯỞNG “LƯƠNG SƯ HƯNG QUỐC”
TRONG ĐẠO KẺ SĨ

                              Nguyễn Đức Cung

        Trong bối cảnh lịch sử Việt Nam, Nghệ Tĩnh (cũng có khi gọi là An-Tĩnh, theo các tư liệu của Tạp chí Bulletin Des Amis Du Vieux Hué viết tắt BAVH) là một kết hợp của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh nói chung là đất của văn hóa và lò lửa của cách mạng, nhất là trong thế kỷ XX.  Những con người xuất thân từ vùng đất này sở dĩ nổi tiếng là vì một nguyên tắc phong thủy bất di bất dịch đó là “địa linh” tất phải sinh “nhân kiệt”. Ngày nay vấn đề đô thị hóa tại Việt Nam có thể đã ảnh hưởng phần nào về địa mạch, long mạch, thế đất nên nguyên tắc phong thủy này cũng đã biến dạng hay suy giảm phần nào, tuy nhiên khi đề cập tới một nhân vật khá nổi tiếng của Hà Tĩnh, linh Mục Cao Văn Luận (1908-1986), Viện Trưởng Viện Đại Học Huế (1957-1964), thiết tưởng không thể không đề cập đến quê hương Hà Tĩnh của Ngài, một vùng đất mà Tôn Thất Đàn khi làm Thượng Thư Bộ Hình, năm 1930, trong quyết tâm tiêu diệt cái gọi là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh của đảng Cộng Sản Đông Dương, đã nói: “Hữu Nghệ Tĩnh bất phú, vô Nghệ Tĩnh bất bần”     ,   Dĩ nhiên ngày nay quan điểm nặng phần tiêu cực đó không thể được chấp nhận và sự nghiệp của một con người khó thể tách ra khỏi phần lịch sử chung của một địa phương.
        1.- Bối cảnh không gian văn hóa của một vùng đất địa linh.
         Hippolyte Taine (1828-1893) triết gia, sử gia và là một nhà phê bình Pháp nổi tiếng đã từng cho rằng những con người thần tài, bất cứ thi sĩ hay chính khách đều được tạo nên bởi những yếu tố như dòng giống, thời thế và hoàn cảnh xã hội (la race, le temps, le milieu).
        Trong bài diễn văn đọc tại Đại học đường Birmingham ở Anh ngày 29 tháng 5 năm 1911, và về sau đã được xuất bản với mấy bài khác trong quyển Năng lực tinh thần (đã được linh-mục Cao Văn Luận dịch ra Việt ngữ), có tên Ý thức và sự sống, Bergson (1859-1941) nêu lên câu hỏi và tự trả lời: “Chúng ta thường căn-cứ vào dấu hiệu nào để nhận biết một người hoạt-động, người đã để lại dấu vết mình trên những biến-cố mà hoàn-cảnh đã làm cho nó xen vào?Há chẳng phải là căn-cứ vào sự người ấy đã bao quát được một khoảng thời gian kế tiếp khá dài trong một cái nhìn chớp nhoáng? Quãng quá-khứ bao hàm trong hiện-tại của người ấy càng lớn, thì cái trọng-khối người ấy đẩy vào tương-lai để thúc-bách các biến-cố lâm-thời đang được chuẩn-bị, lại càng mạnh: hành-động của người ấy giống như một cái tên, quan-niệm về hành-động ấy càng được kéo căng ra về phía sau, thì nó càng được bắn mạnh về phía trước.” (Tạp chí ĐẠI HỌC số 1, năm thứ IV, Tháng 2-1961, trang 169). Tư tưởng triết lý này kết hợp với quan điểm của Hippolyte Taine nêu ra ở trên xem ra khá thích hợp khi được sử dụng như các tiêu chuẩn để khám phá lại phần nào cuộc đời của linh mục Cao Văn Luận, một nhân vật đã cống hiến những gì là tinh hoa nhất của mình cho đất nước qua đường dài văn hóa và giáo dục.
        Trong Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, ở mục Đạo Hà Tĩnh, có viết đại cương về cảnh quan địa lý và nhân sinh phong thổ của Hà Tĩnh, vốn là quê hương của linh Mục Cao Văn Luận, như sau: “Ruộng đất phần nhiều rắn xấu, ít bằng phẳng; ruộng núi thì cao khô mà nước khe không tưới được mấy; ruộng gần biển thì thường bị nước mặn, có đắp đập ngăn cũng khó thành công, vì thế nhân dân yên phận nghèo nàn mà chuộng cần kiệm. Đồng nội phần nhiều trồng khoai củ làm lương ăn, dầu gặp năm mất mùa đói kém mà dân không đến nỗi phải phiêu lưu.” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997, trang 88).
        Linh mục Phaolô Cao Văn Luận sinh năm 1908, quê quán xã Đông Tràng thuộc Thọ Ninh, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1908 là thời điểm quan trọng trong lịch sử Việt Nam vì đó là năm xảy ra một biến cố quan trọng mà các nhà sử học gọi là “Trung Kỳ Dân Biến”tức là việc nông dân cùng rất nhiều thành phần khác xuống đường xin giảm sưu thuế khởi đi từ huyện Đại Lộc (Quảng Nam) rồi lan ra ngoài tới Nghệ An và trong tới Bình Thuận. Tinh thần đấu tranh của những vùng đất Miền Trung trong đó có Hà Tĩnh không thể nào không ảnh hưởng đến một nhân vật mà sau này có những hoạt động trong lãnh vực văn hóa, chính trị, tôn giáo ghi những dấu ấn cụ thể để lại cho nhiều người biết tới.
        Xét về phương diện địa lý, xã  Đông Tràng của linh mục Cao Văn Luận chịu ảnh hưởng “của sông La Giang ở Hà Tĩnh, quen gọi là sông Cái, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn nước chảy yếu hơn, chỉ tạo được các bãi nhỏ ở Voi Bổ hoặc ở Ngàn Trươi và bồi đắp cho một số làng ở ven sông, nhưng có nơi đất đai lại bị nước xói lở cuốn trôi mất. Những cánh đồng ở sát bờ sông rất lợi hại là như thế. Những vùng có ảnh hưởng bởi giòng sông này: Đông Tràng, Thọ Ninh, Nghĩa Yên, Kẻ Tùng, Láng Ngạn… Các vùng Nam Đàn, Đức Thọ vì nằm sát bờ sông Lam và sông La rất thích hợp cho nghề trồng mía.” (Hồ Đức Hân, Lịch sử Giáo Phận Vinh, Nhóm thân hữu Nghệ Tĩnh Bình phát hành, 1989, trang 28).
        Về thổ ngữ, theo nhận xét chung của nhiều người trong đó có tác giả Hồ Đức Hân, “Hoan Châu (tức Nghệ Tĩnh) lại có vẻ độc đáo về danh từ ngôn ngữ qua văn chương thi phú. Nhất là ở nông thôn càng được truyền tụng nhiều hơn thành thị. Thường họ dùng những danh từ hóm hĩnh, sâu sắc, châm biếm, linh động và đặc biệt nhà quê. Nhưng khi nào cũng nhằm mục đích uốn nắn rèn đúc con người sống theo nề nếp cha ông và giữ phong cách đạo lý cổ truyền. Nhiều bà ở nông thôn hễ mở miệng nói là dùng ca dao tục ngữ. Điều đó chứng tỏ Nghệ Tĩnh Bình có một nền văn hóa cổ kính đã ăn sâu vào tiềm thức con người. Thật là một điểm độc đáo đáng quý.” (Hồ Đức Hân, Sđd, trang 25).
        Trước đây, những ai từng là học trò của linh mục Cao Văn Luận, những cộng sự viên của Ngài ở các cơ sở văn hóa giáo dục, chắc không thể nào quên giọng nói của Ngài trong các bài diễn văn, diễn từ, lời chỉ thị dặn dò, các buổi trò chuyện riêng tư. Cái cung giọng đó được một tác giả xuất thân từ Nghệ Tĩnh ghi lại tổng quát như sau: “Ngôn ngữ gồm cung giọng và tiếng nói. Vì là ở miền Trung, cung giọng Nghệ Tĩnh Bình tương tự như Quảng Trị, Huế: Không nhẹ nhàng, không lên bổng xuống trầm, nhưng cũng không nặng chịch như một đôi người nghĩ, và khi muốn nhại tiếng Nghệ Tĩnh Bình thì toàn bỏ dấu nặng. Ở Bắc, cung giọng miền biển nặng hơn cung giọng miền trung châu nhiều. Nhưng ở Nghệ Tĩnh Bình, cung giọng miền biển xem như không khác nhiều lắm đối với cung giọng trung châu, nhưng họ thường nói rất lớn. Có lẽ vì quen nói lớn để làm lấn át tiếng sóng gió từ ngoài khơi vỗ vào bờ, nên mới có câu: Ăn sóng nói gió! Ở Nghệ Tĩnh Bình có mấy loại giọng nói khác nhau, nhưng theo phong tục, họ không thích kẻ khác nhại tiếng nói của mình.” (Hồ Đức Hân, Sđd, trang 20).
        Trong cuốn Từ điển Nhân vật Xứ Nghệ của Ninh Viết Giao có ghi linh mục Cao Văn Luận quê xã Sơn Mỹ, huyện Hương Sơn, tỉnh Nghệ An, rõ ràng là có sự sai lầm vì huyện Hương Sơn vốn thuộc đất Hà Tĩnh. Còn cái tên Sơn Mỹ không biết ngày nay có phải là tên hành chánh của giáo xứ Đông Tràng ngày trước hay không? (Ninh Viết Giao & Hội Văn nghệ Dân gian Nghệ An, Từ điển Nhân vật Xứ Nghệ, Nhà xb Tổng Hợp TPHCM, 2006, trang 114).
        Như đã nói ở trên, linh mục Cao Văn Luận sinh năm 1908, quê quán xã Đông Tràng, thuộc Thọ Ninh, tỉnh Hà Tĩnh. Trong tài liệu của Hồ Đức Hân, xã Đông Tràng thuộc Hạt Nghĩa Yên gồm các xứ: Nghĩa Yên, Thọ Ninh, Đông Tràng, Kẻ Mui, Kẻ Đọng, Đông Cường, Cam Lâm, Tràng Đình. (Hồ Đức Hân, Sđd, trang 64). Xứ là xứ đạo hay giáo xứ; Hạt gồm nhiều giáo xứ hay cũng gọi Giáo hạt. Vị linh mục đứng đầu Giáo hạt thì gọi là Hạt trưởng.         Giáo xứ Đông Tràng được thành lập năm 1888, dưới thời Đức cha Pineau Trị với con số giáo dân ghi nhận trước ngày 30-4-1975 là 1404 người. Đây là thời mà Giáo phận Vinh được hoàn toàn yên ổn, cảnh lương giáo không còn tương tàn nữa.
        Theo linh mục Cao Hữu Phan thì nguyên gốc đời ông nội, bà nội ở giáo xứ Thọ Ninh, hạt Nghĩa-Yên, tỉnh Hà-Tĩnh. Đến đời cha thì di cư lên lập nghiệp ở giáo xứ Đông Tràng. Ông nội của Ngài là anh ruột của linh mục Phêrô Cao Văn Phong (1838-1904). Thân sinh là cụ Cao Văn Trí, em ruột linh mục Phêrô Cao Thiên Đạt (1850-1931) du học Pénang, nổi tiếng thông minh. Cũng theo linh mục Cao Hữu Phan, lúc thiếu thời cậu Luận ở với cha già Lê Văn Minh tại xứ Đông Tràng, sau một năm được gửi ra ở với cha Cao Thiên Đạt bị mù, hưu dưỡng ở Xã Đoài (về sau chết tại Hà Tĩnh).
        Năm 1922, cậu Cao Văn Luận nhập Tiểu chủng viện Xã Đoài (giáo phận Vinh) dưới thời Thừa-sai Le Gouriérec làm Giám-Đốc. Năm 1928, qua sáu năm học hành xuất sắc, đến hạn đi giúp xứ. Nhưng may mắn ngài không phải đi, vì theo chương trình cải tổ Chủng Viện, Thừa-Sai Văn can thiệp được với Đức Cha Bắc (Eloy) cho hai người tên là Cao Văn Luận và Trương Cao Khẩn đi học ở Pellerin Huế. Về sau có thêm một số thầy cùng đi và sau trở thành linh mục, đó là các cha Trần Văn Sáng, Vũ Minh Khiêm và Bùi Đình Đề. Qua năm 1933, cả hai tốt nghiệp ban Thành chung, rồi tiếp nhập vào  Đại Chủng Viện Xuân-Bích Hà Nội. Trong thời gian học tại đây, ngài dọn hai chương trình đạo đời cùng một lúc và đến cuối năm 1935, ngài đậu Tú Tài II. Theo phong tục thời đó, đáng lẽ ngài phải làm lễ vinh qui bái tổ, nhưng ngài không chịu cho ai tổ chức gì. Đến ngày 8.6.1939, ngài và thầy Trương Cao Khẩn cùng thụ phong linh mục.
        Cũng năm 1939, theo LM Cao Hữu Phan, nhờ nhà nước Bảo hộ thay đổi chính sách kỳ thị giáo sĩ nên Giáo phận Vinh được ưu tiên một học bổng du học Pháp. Bề trên Giáo phận đã dành cho linh mục Cao Văn Luận học bổng này và ngài ghi danh vào học ở Sorbonne, theo khoa Triết và Văn chương, trọ ở Institut Catholique. Năm 1942 ngài đậu Cử nhân Triết học và Văn chương. Từ năm 1942-1943, ngài chuẩn bị gia nhập Hội dòng Xuân Bích, nhưng rồi bất thành. Qua năm 1944 ngài ghi danh làm luận án Tiến sĩ và theo học trường Sinh ngữ Á châu ở Paris, tốt nghiệp năm 1945. Cách mạng tháng 8 năm 1945 bùng nổ và ngài bỏ luôn việc làm luận án Tiến sĩ. (LM Cao Hữu Phan, Lịch sử Giáo phận Vinh,Hội Ái Hữu Địa Phận Vinh, 1996 từ trang 415-425 và Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo phận Huế, Tập I, 2000, từ trang 389-392).
        Qua cuốn đó trước hết phải ghi nhận rằng linh mục Cao Văn Luận là người có lập trường quốc gia chân chính. Tại Pháp, ngài sống liên hệ mật thiết với các tổ chức sinh viên VN và Việt kiều, thành lập Hội Liên hiệp những người Đông Dương (Fédération Des Indochinois de France) với chủ tịch đầu tiên là Trần Hữu Phương và các hội viên sáng lập như Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, hai anh  em Hoàng Xuân Mãn, Hoàng Xuân Nhị (em Hoàng Xuân Hãn). Ngài tiếp xúc với Đại Tá Paul Arnoux từng làm chánh mật thám tại Đông Dương. Sau khi hội này tan rã, ngài lập Hội Những Người Công Giáo Việt Nam tại Pháp (Association des catholiques Vietnamiens de France). Các lãnh tụ của hội mới này cũng bị bắt trong đó có Nguyễn Hy Hiền (em Linh mục Nguyễn Văn Thích ở Huế).
        Qua thời gian ở Pháp, linh mục Cao Văn Luận có gặp một số nhân vật lịch sử như vua Duy Tân, ông Hồ Chí Minh và Đức Giáo Hoàng Piô XII được ghi lại trong cuốn hồi ký riêng của ngài, cũng giúp cho ngài có thêm kinh nghiệm trong cách nhìn người, nhìn đời.
  
        2.- Con đường góp tay xây dựng chính nghĩa quốc gia.
        Tháng tám năm 1947, linh mục Cao Văn Luận cùng 15 cha Việt Nam khác lên chiếc tàu Felix Roussel về nước. Tàu ghé Vũng Tàu rồi ngược giòng sông lên Sài Gòn. Từ đây ngài lấy vé tàu thủy ra Hải Phòng rồi từ đó lên Hà Nội, gặp Hoàng Bá Vinh  cầm đầu một nhóm cán bộ của ông Ngô Đình Diệm đang hoạt động cho một giải pháp quốc gia thuần túy, nghĩa là không theo Việt Minh mà cũng không hợp tác với Pháp. Ít lâu sau, một số nhà trí thức không hợp tác với người Pháp, từ vùng Việt Minh trốn về đã đến gặp linh mục như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Dương Đôn v.v… Ngài cũng có gặp Nguyễn Thế Truyền là người từng viết tựa cuốn sách của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh), cuốn Le procès de la colonization francaise, nhưng không thấy gì xuất sắc ở nhân vật này.
        Khoảng cuối năm 1947, ông Trần Văn Lý cầm đầu Hội Đồng Chấp Chính Trung Việt từ Huế ra Hà Nội, có đến gặp Linh mục và mời ngài về Huế, ngài nhận lời. Ngài cũng nhắc chuyện có một người tên là Nguyễn Khuê được Hoàng Bá Vinh đưa đến giới thiệu với ngài và trong lần gặp thứ hai Khuê ca tụng ông Ngô Đình Diệm và trao cho linh mục một tập giấy viết tay, chữ ông Diệm trình bày cái giải pháp và chủ nghĩa của ông. Nguyễn Khuê này có lẽ là Hồ Sĩ Khuê (?) sau này có viết quyển Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Hồi ký Bên Giòng Lịch Sử ghi lại như sau: “Khuê trao cho tôi một tập giấy viết tay, chữ của ông Diệm, đoạn thì viết bằng tiếng Pháp, đoạn thì bằng tiếng Việt trong đó ông Diệm trình bày các giải pháp và cái chủ nghĩa của ông. Trên phương diện một người khảo sát văn chương hay triết lý thì tôi không thể nào phục cái gọi là chủ nghĩa Xã hội quốc gia gì đó của ông Diệm được. Lập luận đôi khi lúng túng vấp váp chẳng có gì khúc chiết vững chắc. Đại để thì tôi hiểu là ông Diệm chủ trương xây dựng một lực lượng quốc gia thuần túy, không phải cộng sản, mà cũng không theo Pháp, nhưng cũng lại không chủ trương đánh Pháp, mà hình như là chủ trương một sự thương thuyết nào đó với Pháp, trên căn bản Pháp phải công nhận đương nhiên và trước hết nền độc lập, thống nhất, chủ quyền của Việt Nam từ Cà Mâu đến Nam Quan. Lý thuyết thì không làm cho tôi phục được, nhưng cái tâm huyết của một người muốn tìm một đường đi cho quốc gia Việt Nam trong hoàn cảnh đặc biệt này thì làm cho tôi thấy thương mến, kính trọng ông.” (Bên Giòng Lịch Sử trang 167). Đối với một bậc “lương sư” như linh mục Cao Văn Luận, vốn được đào luyện kỹ càng trong môi trường chữ nghĩa và lý luận (triết học), dĩ nhiên ngài có thừa nhận thức và hiểu biết để đánh giá một lý thuyết, một chủ nghĩa, nhưng cái tâm của ngài vẫn là cái tâm bao dung, khoáng đạt trong cách nhìn người và nhìn sự việc.
        Cuối năm 1947, cha Luận vào Huế gặp Ngô Đình Cẩn, Trần Điền (khuynh hướng Đại Việt), được Trần Văn Lý đề nghị làm Giám đốc Nha Văn hóa Miền Trung, rồi từ Huế đi ra Đồng Hới (ngụ tại Giáo xứ Tam Tòa) rồi từ đây đi ca-nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn và về xứ Đan Sa trông coi giáo xứ này. Lúc bấy giờ một số giáo xứ đã liên lạc với người Pháp xin súng để rào làng chống Việt Minh. Từ tháng tư 1948 nghe nói Bảo Đại về nước, linh mục Cao Văn Luận từ Quảng Khê vào Đồng Hới và mua vé máy bay vào Huế. Bửu Lộc đánh điện mời linh mục Cao Văn Luận lên Đà Lạt ý chừng nhờ ngài thuyết phục ông Ngô Đình Diệm lúc đó đang ở Đà Lạt ra thành lập một chính phủ nhưng khi gặp, ông Diệm lắc đầu.
        Trong lần gặp đầu tiên, ông Ngô Đình Diệm đã tỏ ra có những nhận định chính trị rất chính xác và sắc bén trong đó có đề cập tới Tây nguyên và đưa ra tầm nhìn chiến lược quan trọng rằng ai kiểm soát được Tây nguyên thì sẽ chế ngự được toàn bộ Đông Dương.
        Linh mục Cao Văn Luận ghi nhận:
        -Cụ nói đúng. Tôi có đọc một cuốn sách đại ý rằng Pháp muốn ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam về phía Tây, muốn để dân tộc Việt Nam dừng lại ở các miền duyên hải, còn Pháp thì phải giữ vững vùng Cao Nguyên Trường Sơn, vừa để ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam, vừa canh phòng phía Lào. Như vậy khi lập Hoàng Triều Cương Thổ, đặt trực thuộc Pháp, thì Pháp đã bắt đầu thi hành đúng cái chính sách đó rồi.
        Lần đó ông Ngô Đình Diệm cho biết đường lối chính trị của ông qua lời tâm sự với cha Luận như sau: -Trong một vài trường hợp, mình có thể tính chuyện hợp tác với người Pháp trên căn bản thỏa hiệp vịnh Hạ Long, với một điều kiện: Bảo Đại không phải là Bảo Đại. (Bên Giòng Lịch Sử, trang 179-180).
        Trong dịp này, linh mục Cao Văn Luận cũng được mời hội kiến với Cựu Hoàng Bảo Đại tại biệt điện sang trọng của ông nằm trên một đồi thông. Cựu Hoàng cho biết sở dĩ ông về nước làm việc cho quốc gia vì thấy nước Pháp chịu nhượng bộ khá nhiều theo thỏa ước vịnh Hạ Long. Bảo Đại cũng cho biết các nhân vật quốc gia chân chính phần nhiều đều từ chối hợp tác hoặc có vị đòi hỏi những điều kiện quá lý tưởng. Linh mục Luận cho biết Bảo Đại trông có vẻ chán chường và mệt nhọc khi có lúc nằm chuồi dài trên ghế bành mà nói chuyện.
        Sau đó linh mục Cao Văn Luận về Huế rồi trở lại Hướng Phương là một xứ đạo lớn của tỉnh Quảng Bình. Năm 1949, ngài rời Hướng Phương và vào Huế mở lớp Triết đầu tiên tại trường Quốc Học Huế mà theo ngài cho biết người học trò chăm nhất là Âu Ngọc Hồ. Các tác phẩm ngài biên soạn lúc đó gồm: Triết học đại cương, Tâm lý học, Luận lý học, Đạo đức học, tất cả đều thuộc loại sách giáo khoa triết học biên soạn bằng tiếng Việt dùng để đi thi Tú Tài II. Ngoài ra ngài cũng  phiên dịch các bộ sách khác như : Phương pháp luận (Discours de la method) của Descartes, Vật chất và Ký ức (Matière et Mémoire) của Bergson, Năng lực tinh thần (Énergie spirituelle) của Bergson, Hai nguồn mạch của đạo đức và tôn giáo (Les deux sources de la morale et de la religion) của Bergson.
        Cũng từ đó, Linh mục Cao Văn Luận bắt đầu liên lạc với linh mục Emmanuel Jacques Houssa, người Bỉ, từng sống ở Phát Diệm từ 1939 đến 1945 là người đã tổ chức cho nhiều sinh viên du học nước ngoài và nhất là giới thiệu ông Ngô Đình Diệm để được tiếp đón tại dòng tu Maryknoll thuộc tiểu bang Maryland (có lẽ linh mục Luận nhớ lầm, dòng tu này thuộc tiểu bang New Jersey). Cũng cần nói thêm ở đây một chút. Theo Linh mục AntônTrần Văn Kiệm, trong cuốn hồi ký có tên Sự Thực Có Sức Giải Phóng (2013, trang 26), Đức Giám Mục Ngô Đình Thục, bào huynh của ông Ngô Đình Diệm là bạn học cùng lớp với Đức Hồng Y Francis Spellman lúc ở Rô ma nên Đức Hồng Y New York đã bảo lãnh cho ông Ngô Đình Diệm khi sang Mỹ và giới thiệu nên ông Ngô Đình Diệm được các giám mục và linh mục thuộc Dòng Maryknoll đón rước vào các tu viện của họ. Các vị này có hai cơ sở, một sở Ossining tiểu bang Nữu Ước, một ở Lakewood tiểu bang New Jersey. Trong thời kỳ làm tân khách, ông Diệm lui tới cả hai cơ sở: lúc thì ở Ossining, lúc khác ở Lakewood. Các thanh niên ưu tú lúc bấy giờ như Âu Ngọc Hồ, Nguyễn Văn Mừng, Nguyễn Thị Quýt, Võ Thị Hồng Phúc, Phạm Đăng Tải, Phùng Viết Xuân được gửi sang Mỹ gặp cha Houssa. Về việc gửi các sinh viên trẻ đi du học nầy, Giáo sư Nguyễn Văn Trường, Giáo sư khoa học Đại Học Sư Phạm trong bài viết có tên “Huế, Viện Đại Học, Cha Luận và chúng tôi…” (trên mạng Namkyluctinh.org) đã viết: “Cha Viện Trưởng, vài năm trước khi thành lập Viện Đại Học Huế, đã có kế hoạch trồng người. Cha gởi nhiều học trò giỏi đi du học. Muốn là giáo chủ, khai đạo, phải có tông đồ. Nhưng tông đồ của cha, người đi thì có, người về không mấy ai. Cha tự an ủi: “Ở Sài Gòn, tức là thủ đô thời bấy giờ, quí vị ấy giúp Cha nhiều hơn.”Cũng vì thế, cha phải tuyển các hộ pháp, thời quân, sứ giả của cha ở nhiều nguồn khác nhau: tại chỗ, Sài gòn, Pháp, Anh, Đức, Bĩ… và đa số thì rất trẻ. Bên những bậc cha anh – như cụ Nhu, Cha Thích - bọn trẻ học hỏi và trưởng thành. Tôi bỗng dưng trở thành thời quân của Cha. Cũng tội cho tôi. Nhưng tôi đã được đền bù. Cuộc đời tôi nhờ đó mà đi lên”.
        Thời gian này ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh lên án tử hình và cơ quan Mật thám Pháp tỏ ý không đủ sức bảo vệ an ninh cho ông Diệm nên ông phải tìm cách lánh ra nước ngoài bằng cách xin đi dự Năm Thánh (1950) ở Rôma.
        Tháng sáu 1953, linh mục Cao Văn Luận, do sự thúc đẩy của ông Ngô Đình Cẩn, sang Pháp gặp ông  Ngô Đình Diệm ở đây, và giữa những khó khăn do ông Diệm nêu ra, đã gợi ý ông Diệm nên nắm công an cảnh sát trước, quân đội sẽ tính sau. Cha Luận cũng gặp Nguyễn Đệ là Ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại, vận động cho ông Ngô Đình Diệm bằng cách lưu ý Nguyễn Đệ rằng “Quốc dân lúc này không còn tin được vào ai nữa ngoài ông Diệm”. Trong dịp này, cha Luận cũng có cuộc hội kiến với một lãnh tụ Cộng Sản là Nguyễn Khắc Viện, con cụ Nguyễn Khắc Niêm từng là Thượng Thư Bộ Hình triều Nguyễn, sang Pháp học Y khoa từ năm 1936. Gặp cha Luận, Viện cố thuyết phục cha đừng ủng hộ ông Diệm vì đằng sau ông Diệm có Mỹ, và nếu có Mỹ nhúng tay vào thì cuộc nội chiến ở Việt Nam sẽ khốc liệt hơn. Cha Luận phản bác ý kiến của Viện, cho rằng với Mỹ, chế độ thực dân cũ đã cáo chung điển hình là Mỹ thắng Nhật rồi lại giúp Nhật phục hưng kinh tế mạnh mẽ. Mỹ vào Âu châu rồi cũng lại giúp Âu châu. Áp lực của Mỹ, nếu có theo chân ông Diệm dồn vào Việt Nam, cũng chỉ là một thứ áp lực kinh tế. Còn bên Viện, con đường nguy hiểm hơn nhiều vì sau lưng Cộng Sản Việt Nam là Trung Cộng.Vì quyền lợi của Tầu, Mao Trạch Đông sẽ phải thôn tính Đông Nam Á. Cha Luận lưu ý Viện là dân chúng ủng hộ ông Ngô Đình Diệm, mong muốn ông về chấp chánh.
        Những lần tiếp xúc sau đó với ông Ngô Đình Diệm, cha Luận khuyên ông nên gặp gỡ nhiều với các chính khách Pháp.
        Từ Pháp, linh mục Cao Văn Luận sang Mỹ gặp cha Houssa, từ New York về New Jersey trú lại ở một nhà dòng các nữ tu, dịp này cha Luận làm quen với linh mục Trần Văn Kiệm sang Mỹ từ mùa hè 1950. Cha Luận cũng gặp Phan Quang Đán lúc bấy giờ là một chính khách đang lên. Ông Đán tỏ ý muốn hợp tác với ông Diệm nếu được mời. Theo cha Luận, lúc này, “ông Diệm đang được lòng dân, ít ra là trong thành phần trí thức, tức là thành phần có ảnh hưởng lớn nhất trong một xã hội” (Bên Giòng Lịch Sử, trang 236).
        Trong một đại hội các du học sinh VN ở Chicago, linh mục Cao Văn Luận tới đây để thăm viếng cha Houssa và các sinh viên được ngài gửi đi học, ngài cũng phân tích tình hình chính trị trong nước. Khi có nhiều người vẫn tin tưởng rằng “cụ Hồ là một người yêu nước chỉ mượn sức mạnh cộng sản quốc tế để giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ của Pháp”, Linh mục nói: “Tôi giải bày với các anh em đó rằng cộng sản là một tổ chức quốc tế chặt chẽ, cũng như lý thuyết cộng sản có một sức quyến rũ lớn, làm cho ai đã gia nhập khó mà thoát khỏi. Tôi vẫn thán phục cụ Hồ, nhưng không tin rằng cụ có thể coi cộng sản như một cơ hội, một sức mạnh vay mượn, và về sau xong việc có thể mang trả được.” Việc tìm hiểu lập trường của ông Hồ không chỉ có những người thanh niên, sinh viên của linh mục Cao Văn Luận lúc bấy giờ nêu ra (khoảng 1949-1950) mà sau này từ 1962, khi Bernard Fall vốn là một sử gia luôn đi sát Hồ Chí Minh, đã gạn hỏi Hồ Chí Minh về một đôi điều xem ra bí mật, đã được Hồ yêu cầu là cho ông ta giữ một ít bí mật về ông ta. Gần đây một sử gia Nhật Bản, Yoshiharu Tsuboi (Bình Tỉnh Thiện Minh, chữ của Giáo sư Trần Văn Toàn trong cuốn Đạo Trung Tùy Bút, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, trang 15)) tác giả cuốn sách nổi tiếng, “Nước Đại Nam đối diện với Pháp & Trung Hoa” (L’Empire Vietnamien face à là France et à la Chine, 1847-1885) cũng đã nêu quan điểm riêng, đọc thấy trên mạng một vài năm trước đây, khi cho rằng ông Hồ là cộng hòa hơn là cộng sản (sic). Tựu trung, có lẽ chỉ nhận định của linh mục Cao Văn Luận nêu trên là chính xác hơn cả.
        Từ Hoa Kỳ, linh mục Cao Văn Luận sang Paris gặp thăm ông Ngô Đình Diệm. Bảo Đại lúc này đã đưa Bửu Lộc ra làm Thủ tướng thay cho Nguyễn Văn Tâm. Ông Diệm vẫn tiếp tục đưa ra những điều kiện cũng giản dị: được toàn quyền điều hành chính phủ VN, đối phó trực tiếp với người Pháp dĩ nhiên vẫn nhân danh Bảo Đại trong khi ở bên nhà ông Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn tiếp tục củng cố tổ chức đảng, thu phục thêm đảng viên, lôi cuốn nhân tài. Ông Diệm nói tuy lúc này không thể về trong những điều kiện chưa thuận tiện nhưng nếu bên nước nhà có một phong trào nhân dân mạnh mẽ đòi hỏi ông Diệm về chấp chánh thì Bảo Đại và Pháp phải chấp nhận những điều kiện của ông Diệm.
        Ngày 7-7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng. Ngày 20-7, đất nước VN bị chia đôi theo hiệp định Genève, và hàng vạn người Miền Bắc lũ lượt di cư. Nhiều khó khăn xảy đến cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về phía Pháp, Bình Xuyên, quân đội do Nguyễn Văn Hinh cầm đầu khiến cho vị Thủ Tướng mới này chán nản, thất vọng và có ý định bỏ nước ra đi. Giữa cảnh khó khăn đó, linh mục Cao Văn Luận sau khi được ông Ngô Đình Cẩn mời gặp, đã vào Sài Gòn, tìm ngay đến Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trấn tỉnh ông, khuyên ông nên ở lại chấp nhận cuộc đấu tranh. Trong quan hệ được coi như “lương tể” đối với “minh quân”, linh mục nhấn mạnh trách nhiệm của ông Diệm đối với quốc gia Việt Nam, dân tộc Việt Nam, nhất là trách nhiệm đối với hàng trăm ngàn dân di cư đã tin tưởng nơi cụ mà kéo vào đây. Linh mục Cao Văn Luận cũng lưu ý ông Ngô Đình Diệm rằng : “Đồng bào di cư Bắc và Nghệ Tĩnh Bình là một gánh nặng, nhưng cũng có thể là một sức mạnh, cụ đã nghĩ đến chuyện nhờ đến sức mạnh đó chưa? Những đồng bào di cư hiện đang sống khốn khổ, bấp bênh trong các trại tạm cư chen chúc nhau hàng chục người trong một căn phòng vài thước vuông vức, cụ có thể nỡ lòng bỏ họ trong tình trạng đó sao?... Cụ nên tập trung mọi phương tiện, mọi nỗ lực giải quyết vấn đề đồng bào di cư trước. Một khi cụ định cư họ được thì chính họ sẽ là lực lượng hậu thuẫn nồng cốt cho cụ.” (Bên Giòng Lịch Sử, trang 271). Linh mục Cao Văn Luận cũng giải bày cho ông Diệm về thực chất yếu ớt của nhóm nhỏ người theo Tây, theo Bình Xuyên, việc bỏ đi lúc này là mắc mưu Pháp, Bảo Đại và nhóm Tâm, Hinh nhờ đó ông Diệm thay đổi lập trường, trở nên sáng suốt và cứng rắn hơn. Trong câu chuyện, ông Diệm nói ông đã có cách để đối phó với bọn Bình Xuyên, Tâm-Hinh. Ngày hôm sau, linh mục trở về Huế và vài hôm tiếp ngài đã thấy cái cách ông Diệm giải quyết nạn Bình Xuyên và Tâm-Hinh đó là dùng mọi nỗ lực chuyển các tiểu đoàn Bảo Chính Đoàn, Bảo An Đoàn, các lực lượng quân sự Việt Nam từ Bắc và Trung vào Sài Gòn bằng những phương tiện nhanh nhất. Ông Diệm cũng cho thành lập hệ thống công an cảnh sát riêng và giao cho Mai Hữu Xuân trông coi. Cái sắc sảo của linh mục Cao Văn Luận là đã gợi ý cho ông Diệm nhớ đến một sức mạnh chưa sử dụng, hàng chục vạn dân di cư và gia đình họ. Số người đông đảo này đang ở trong một thế kẹt, đang bị dồn vào đường cùng, và sẵn sàng liều mạng để chiếm một đất sống.        Theo linh mục Cao Văn Luận, Phong trào Cách mạng Quốc gia và đảng Cần Lao không có cơ hội thử thách để trưởng thành và trở thành một đảng chính trị đúng nghĩa của nó. Lý thuyết Nhân vị được dùng làm nền móng tinh thần cho Đảng và Phong trào cũng vấp vào nhiều khuyết điểm không có sức sinh động mạnh để thu hút quần chúng, những căn bản triết lý của nó cũng quá mập mờ, vá víu, và không bắt nguồn từ những truyền thống sâu xa của dân tộc Việt Nam. Ông Ngô Đình Nhu cũng có lần đề cập thuyết nhân vị với Linh mục Cao Văn Luận nhưng ngài cố tránh để khỏi có ý kiến. Dù thuyết Nhân vị có nhiều điều bất cập nhưng theo ngài ít ra nó cũng giúp cho người hành động một vài tiêu chuẩn hướng dẫn và một vài cách biện hộ.
         Theo nhận định của cha Luận, cái chủ trương độc đảng của cụ Diệm trong giai đoạn đầu có thể chấp nhận được, nhưng về sau khi đã củng cố được chính quyền  mong cụ Diệm mềm dẻo hơn đối với các tổ chức chính trị, cho phép hoạt động đối lập chính trị công khai và hợp pháp.
        Linh mục Cao Văn Luận cũng phát biểu ý kiến bất đồng về Luật gia đình của bà Ngô Đình Nhu trong đó có khoản cấm đa thê và cấm ly dị. Trước khi dự luật được đưa ra biểu quyết, cha Luận đã gặp TT Ngô Đình Diệm và nói lên sự phản bác đứng đắn của mình.         TT Ngô Đình Diệm đã không nghe lời trần tình này.
        Năm 1956, khi đã ổn định tình hình, có lúc nhân dịp Linh mục Cao Văn Luận đi Mỹ, TT Ngô Đình Diệm nhờ ngài theo dõi quan sát một số tòa đại sứ nước ngoài xem họ làm việc ra sao để tùy nghi chấn chỉnh. Lúc này linh mục và cả TT Ngô Đình Diệm đã có những lưu tâm đến các công cuộc phát triển văn hóa giáo dục ở Miền Nam, coi như một cuộc thi đua với Miền Bắc của Hồ Chí Minh.

        3.- Viện Đại Học Huế và những bước thăng trầm của một người hoạt động văn hóa.



        Trong đời vua Tự Đức (1829-1883), có lẽ một trong những ước mơ ông muốn thực hiện ở chốn kinh sư đó là xây dựng một trường đại học kiểu Âu châu, vào năm 1867 ở Huế, nhưng ước mơ đó đã không thực hiện được.
        Tháng 3-1867, vua Tự Đức đã cử một phái đoàn sang Pháp gồm Giám mục Gauthier (Ngô Gia Hậu), linh mục Nguyễn Điều, linh mục Nguyễn Hoằng và Joannes Vị, với hai vị quan của Triều đình là Nguyễn Tăng Doãn và Trần Hiếu Đạo đáp tàu L’orne đi Pháp. Trong số các công việc phải xúc tiến ở Pháp, phái đoàn này còn có nhiệm vụ tìm phương tiện để thành lập ở Huế một trường Đại Học.
        Tuy nhiên dự án thành lập Viện Đại Học Huế này đã không thành. Theo các thư của Giám mục Gauthier viết về Pháp, sở dĩ việc thực hiện dự án mở trường tại Huế đã không thành  là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong Triều đình. Theo sử gia Trương Bá Cẩn, có lẽ không phải chỉ có Nguyễn Tri Phương hay Võ Trọng Bình, mà có cả một luồng dư luận khá rộng rãi, trong Triều đình cũng như ở các tỉnh, tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ người Pháp.
        Theo giáo sư Yoshiharu Tsuboi, ở Nhật Bản, Triều Tiên, hay Trung Hoa lúc bấy giờ có những khẩu hiệu tương tự nhau. Hòa hồn Dương tài (Tinh thần Nhật và kỹ thuật Tây Âu) ở Nhật; Đông đạo Tây khí (Đạo lý phương Đông vả thực hành phương Tây) ở Triều Tiên; Trung thể Tây dụng (Thể chất Trung Hoa và công dụng phương Tây) ở Trung Hoa. Những khẩu hiệu chứng tỏ nhu cầu có tính thực tế nhất định và do đó, có sự cố gắng thích nghi với những thay đổi của môi trường và với công cuộc hiện đại hóa của đất nước. Ngoài ra, theo vị giáo sư Nhật Bản này, người Việt Nam không phát triển một luận thuyết độc đáo nào khả dĩ chống lại được luận thuyết của Âu Tây; họ không đề ra khẩu hiệu nào khả dĩ vạch ra một đường lối riêng cho dân tộc, một khẩu hiệu có thể làm bật dậy sự thức tỉnh chung vì công việc đề kháng dân tộc,và về mặt này, có thể nói nước Việt Nam của Tự Đức tỏ ra bảo thủ hơn các nước theo Nho giáo khác. Chính sự thiếu mềm dẻo về hệ tư tưởng, hay, nói cách khác, tính chính thống quá cứng nhắc của các nho sĩ đã ngăn cản triều Nguyễn thích nghi với điều kiện mới. (Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (L’Empire Vietnamien face à la France et à la Chine 1847-1885) Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, bản dịch Nguyễn Đình Đầu, in lần thứ ba, 1998, trang 208-209).
        Nếu dự án xây dựng Viện Đại học Huế năm 1867 do nhiệt tâm của Giám Mục Gauthier (Ngô Gia Hậu) và một số nhân vật trong đó có những người thuộc đất Nghệ Tĩnh như linh mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều v.v… thì 90 năm sau, năm 1957 Viện Đại Học Huế lại được trao vào tay một người con dân đất Nghệ Tĩnh đó là linh mục Cao Văn Luận, và niềm ước mơ trong thế kỷ XIX lần này đã trở thành hiện thực trong hạ bán thế kỷ XX với một vị lãnh đạo quốc gia có quyết tâm và viễn kiến hơn vua Tự Đức đó là TT Ngô Đình Diệm.
        Cuối tháng giêng năm 1957, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra Huế dự lễ giỗ cụ Ngô Đình Khả nhân đó gặp linh mục Cao Văn Luận và đưa ra ý kiến thành lập một Đại học tại Huế với lý do Huế từ trước đã là một trung tâm văn hóa của đất nước, có truyền thống văn hóa sâu đậm, giúp cho dân Miền Trung vốn hiếu học có môi trường tiến thân. Về phương diện chính trị, TT Diệm muốn chứng tỏ quyết tâm bảo vệ Huế để thách đố với Cộng Sản Bắc Việt. Nhân đó TT Diệm mời linh mục Cao Văn Luận giúp ông thực hiện dự án quan trọng này. Cha Luận rất vui mừng trước đề nghị đó và một tháng sau một phái đoàn từ Sài Gòn ra gồm ông cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, Viện trưởng Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình và một số giáo sư, chuyên viên khác. Một cuộc họp ở tòa Tỉnh trưởng có thêm một số trí thức và thân hào nhân sĩ Huế tham dự. Hội nghị thảo luận và đi tới quyết định là vì những hoàn cảnh đặc biệt, những khó khăn trong ngành giáo dục, chưa nên làm việc vội vàng hấp tấp và nói rằng Huế chỉ nên lập một chi nhánh của Viện Đại học Sài Gòn tùy thuộc hoàn cảnh vào Viện Đại học Sài Gòn và Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Như vậy Đại Học Huế sẽ không thành một đơn vị độc lập mà chỉ là một số các phân khoa đặt dưới quyền Viện Đại học Sài Gòn mà thôi. Linh mục Cao Văn Luận được cử làm đại diện cho ông Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình để tổ chức. Dĩ nhiên linh mục Cao Văn Luận không đồng ý nhưng đành khuất phục trước quyết định của đa số.
        Về việc sáng lập Viện Đại Học Huế, giáo sư Nguyễn Văn Hai sau này (1997) có viết:
        “Số là sau khi mới về Việt Nam nhậm chức, ông Ngô Đình Diệm ra Huế. Lẽ tất nhiên ông ấy cần một sự tiếp đón nồng hậu của dân Huế nói chung và của học sinh Huế nói riêng. Linh Mục Cao Văn Luận lúc bấy giờ là giáo sư Triết học tại Trường Quốc học. Ngài năn nỉ tôi tổ chức diễn hành đón tiếp. Tôi bàn với một số giáo sư, trưởng lớp và trưởng ban sinh hoạt của trường. Tất cả đồng ý đặt điều kiện là Ông Diệm phải hứa sau này có quyền hành thời phải mở một Đại Học tại Huế để con em miền Trung nghèo có cơ hội cầu tiến. Lời yêu cầu cũng vừa hợp ý ông Diệm. Sau khi được đoan chắc như vậy, chúng tôi mới mặc đồng phục quần trắng có thắt cà vạt xanh lơ mang biểu ngữ đòi mở Đại Học Huế đi hàng lối chỉnh tề diễn hành chào đón. Sau đó, Tổng thống Ngô Đình Diệm giữ lời hứa cho mở Đại Học Huế mặc dầu có sự phản đối dữ dội  của các vị khoa bảng ở Sài gòn. Đại học Huế được thành lập, con em miềnTrung có chỗ trau dồi chuyên môn, và nhiều lớp sinh viên tốt nghiệp đã góp công xây dựng nước Việt Nam.” (Nguyễn Văn Hai, Giai phẩm kỷ niệm 100 năm Trường Quốc Học, 1997, Hồi tưởng Trường Quốc Học, trích dẫn theo Nguyễn Văn Trường, bài viết “Huế, Viện Đại Học, Cha Luận và chúng tôi…” trên mạng Namkyluctinh.org).
        Giáo sư Nguyễn Văn Trường cũng cho biết “giáo sư Nguyễn Quang Trình là ông Viện trưởng đầu tiên, có công hóa giải sự chống đối việc thành lập Viện Đại Học Huế…”
        Trước những khó khăn vì xa xôi, cái gì cũng phải phúc trình về Viện, về Bộ khiến cho công việc chậm trễ nên linh mục Cao Văn Luận vào thẳng Sài gòn gặp TT Diệm trình bày những khó khăn và xin TT Diệm dành cho Đại Học Huế quy chế riêng biệt và ý kiến này được chấp thuận. TT Diệm đồng ý ra nghị định thành lập Viện Đại Học Huế và cử cha Luận làm Viện Trưởng đầu tiên Viện Đại Học Huế.
        Viện Đại Học Huế thành lập do sắc lệnh ngày 1 tháng 3-1957 (SL 45/GD, do Bộ Trưởng Nguyễn Dương Đôn ký) và khai giảng vào tháng 9, 1957.
        Lúc bấy giờ linh mục Cao Văn Luận xúc tiến nhanh việc tìm trụ sở, lớp học, địa điểm, đồng thời mời các giáo sư ở Huế, Sài Gòn và ngoại quốc về hợp tác. Trong giai đoạn đầu ban giáo sư gồm có mấy người như Lê Văn, Lê Tuyên, Lê Khắc Phò, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Trường. Vài tháng sau thêm Lê Thanh Minh Châu và vợ là Tăng Thị Thành Trai. Ngay niên khóa 1957, Đại học Huế mở các chứng chỉ dự bị như Năng lực Luật-khoa, Văn-Khoa, Khoa-Học. Ngoài ra nhận thấy việc đào tạo giáo sư Trung-học và giáo viên Tiểu học rất cần thiết cho tình trạng phát triển giáo dục mạnh mẽ hiện nay và tương lai, linh mục Cao Văn Luận chú trọng đặc biệt vào Đại-Học Sư-Phạm nhằm đào tạo các giáo sinh hệ ba năm thuộc các bộ môn Anh văn,  Pháp văn, Sử Địa, Việt Hán, Toán, Lý Hóa, Vạn Vật.
        Cuối năm 1957, linh mục Cao Văn Luận cùng Tổng Thư Ký là Giáo sư Lê Thanh Minh Châu đi ngoại quốc nghiên cứu cách thức tổ chức đại học đồng thời vận động sự giúp đỡ của các quốc gia Đồng Minh đó là tới Âu châu, sang Mỹ và Gia Nã Đại. Tại Mỹ có tổ chức IRC là cơ quan tài trợ đầu tiên và nhiều nhất rồi cơ quan thứ hai là  Asia Foundation kế đến là tổ chức New Land Foundation. Một số Đại học Hoa Kỳ khuyến khích và đón tiếp rất nồng hậu. Trở về Sài Gòn, linh mục Cao Văn Luận trình bày kết quả chuyến đi với TT Ngô Đình Diệm khiến ông rất mừng rỡ. Công việc tìm kiếm thêm đất đai để xây dựng trường sở, cư xá giáo sư, cư xá sinh viên với các họa đồ thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đều được trình lên TT Diệm phê duyệt. Mỗi lần ra Huế TT Diệm đều có đến thăm Viện Đại Học Huế và chứng kiến kết quả việc làm của linh mục Cao Văn Luận.
        Linh mục Nguyễn Phương tốt nghiệp ở Đại Học San Francisco, California được mời từ Đà Nẵng ra Huế để dạy môn Lịch sử, đã cho chúng tôi biết, khi ra thăm Viện Đại Học Huế năm 1962, TT Ngô Đình Diệm đã tới Trường Đại Học Văn Khoa Huế, thăm Phòng Nghiên Cứu Sử và dừng lại rất lâu ở khu vực trình bày các luận văn nghiên cứu sử học của các giáo sinh Đại Học Sư Phạm để đọc xem các công trình nghiên cứu, nhất là những tập văn của Giáo sư Nguyễn Hữu Châu Phan lúc bấy giờ là Giáo sinh ĐHSP.


(LM Cao Văn Luận đọc diễn văn khai mạc Niên khóa 1961- 1962 của Viện Hán Học)

        Tháng 10 năm 1959, sau hai năm điều hành suôn sẻ Viện Đại Học Huế, linh mục Cao Văn Luận lại đượcTổng Thống Ngô Đình Diệm giao nhiệm vụ thành lập Viện Hán Học trực thuộc Viện Đại Học Huế với sắc lệnh 389-GD ngày 18/10/1959. Đây là mỹ ý của TT Diệm muốn bảo vệ nền cổ học và văn hóa đạo đức của nước nhà do tổ tiên để lại. Nghị định tổ chức mang số 1505 – GD ngày 9-12-1959 do Bộ Quốc Gia Giáo Dục ban hành quy định thể chế sinh hoạt của Viện Hán Học trao cho linh mục Cao Văn Luận nhiệm vụ Giám Đốc và một chủ sự để điều hành công việc của Viện. Giáo sư Nguyễn Tuấn Cường thuộc Viện Đại Học Harvard, trong một biên khảo mới đây (2014) cho rằng với sự thành lập Viện Hán Học tại Huế, Miền Nam Việt Nam đã đi trước Miền Bắc trong lãnh vực bảo tồn nền văn hóa cổ học trên ba mươi năm.

        Trong sách Trung Dung, Khổng Tử đã từng viết về cốt lõi của Đại học rằng : “Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.”   , . Linh mục Séraphin Couvreur, S.J. một nhà Trung Hoa Học nổi tiếng, đã dịch ra tiếng Pháp là “La voie de la Grande Étude, (c-à-d. ce que l’homme dès l’adolescence doit apprendre et pratiquer) consiste en trois choses, qui sont de faire briller en soi-même les vertues brillantes que la nature met dans l’âme de chacun, de renouveler (c-à-d. de reformer) les autres hommes, et de se fixer pour terme la plus haute perfection. (Séraphin Couvreur, Les quatre Livres de Confucius, De l’école Francaise en Extrême-Orient, A PARIS, au 7 du faubourg St-Honoré, 1981, page 2). Sách Nho Giáo của Trần Trọng Kim trích lại câu trên, dùng chữ thân dân thay cho tân dân và dịch là: “Cái đạo của bậc đại học là ở sự làm sáng cái đức sáng, ở sự thân-yêu người, ở sự đến chí thiện mới thôi.” (Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Bộ Giáo Dục & Trung Tâm Học Liệu xuất bản, 1971, quyển thượng, trang 177). Theo một số nhà nghiên cứu, chữ thân dân    có lúc được dùng thay cho chữ tân dân (có lẽ vì tự dạng hơi giống nhau và ý nghĩa cũng san qua sẻ lại với nhau được). Cái ý niệm làm mới (renouveler) hay đổi mới (réformer) con người chính là cốt lõi của hai chữ Đại Học đã được linh mục Cao Văn Luận và hàng ngũ giáo sư cộng sự viên tích cực phát huy tại Viện Đại Học Huế, một cơ sở văn hóa trọng yếu của Việt Nam Cộng Hòa ở một đất văn vật của Miền Trung. Tinh thần đổi mới và tự trị Đại Học chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của Viện Đại Học Huế trong những năm dưới quyền Viện Trưởng Cao Văn Luận. Viện Đại Học Huế bắt đầu áp dụng chế độ chuyển ngữ bằng quốc ngữ thay cho tiếng Pháp mà theo nhiều vị giáo sư đó là cách giúp cho giáo dục Đại học làm trọn vẹn chức năng của mình.
        Một vị giáo sư có mặt với Viện Đại Học Huế từ những ngày đầu, Giáo sư Nguyễn Văn Trường đã viết như sau nói lên tinh thần tự trị của Viện Đại Học Huế:
        Tuy nhiên, trong thực tế, chúng tôi không cảm thấy một sức ép nào từ những cơ quan nêu trên (Bộ Giáo Dục và Tổng Nha Công Vụ). Sự duyệt y các kết quả thi cử, các văn bản thành lập phòng ban v.v… có khi là cần thiết. Tự trị không có nghĩa là không luật pháp. Nhà nước cung cấp ngân sách cho Viện, sự biện minh các chi tiêu, sự kiểm soát đương nhiên là cần thiết. Có điều là khi mình thấy thong dong trong luật pháp, mình không cảm nhận bị ràng buộc, gọi như thế là tự trị, một sự tự trị thực tế, chủ quan và tương đối.Viện đứng ngoài mọi đảng phái chính trị kể cả đảng chính quyền, các tổ chức tôn giáo. Gọi như thế là độc lập. Nhưng trên hết, tự trị và độc lập của nền giáo dục đại học nằm ở chỗ tự do truyền bá, phát huy, và thu nhận của giáo chức và sinh viên. Lẽ dĩ nhiên là trong một giới hạn khả chấp. Điều này là một giá trị hiễn nhiên của nền giáo dục Miền Nam, và là một điểm son của chế độ. Sứ mạng, nhiệm vụ, mục tiêu, đường lối của Viện Đại Học được minh định rõ trong những văn bản mà đôi bên, Chính quyền và Viện Đại Học đều nghiêm túc tôn trọng.” Có thể coi tinh thần tự trị đại học chính là sự hội nhập toàn cầu trong lãnh vực văn hóa vào thời điểm bấy giờ.
        Những điều giáo sư Nguyễn Văn Trường nêu trên có lẽ xuất phát từ ý niệm đại học của Karl Jaspers (1883-1969), một triết gia hiện sinh Ki-tô giáo nổi tiếng của Đức khi ông cho rằng ý niệm đại học gồm ba nhân tố đó là sự thống nhất luôn mới mẻ của các ngành khoa học, định chế đại học và mối quan hệ giữa đại học và nhà nước trong đó Jaspers nhận ra sự hỗ tương căng bức : đại học vừa thuộc nhà nước, vừa tự trị không mang tính nhà nước. Thành hay bại là ở chỗ xây dựng được cơ chế hợp tác bền vững, ổn định và tôn trọng lẫn nhau. (Bùi Văn Nam Sơn, Ý niệm đại học: Linh hồn của giáo dục cấp cao. Tư liệu đăng tải trên mạng, Sept. 14, 2015).
        Cuối năm 1958, Viện Đại Học Huế đã trưởng thành với các phân khoa hoạt động đều đặn, linh mục Cao Văn Luận nghĩ đến việc mở thêm Đại Học Y Khoa vì số bác sĩ ở Việt Nam quá ít. Cha Luận vào Sài Gòn đưa ý kiến đó ra thuyết phục TT Diệm và được TT có vẻ lưu tâm, nhưng khi TT đưa ra nội các thì các ông bộ trưởng đều bác bỏ. Chờ lâu không thấy quyết định của TT Diệm, cha Luận lại vào Sài Gòn và cuối cùng cũng xin được sắc lệnh thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Có được sắc lệnh ấy, linh mục Cao Văn Luận đi gặp các tòa đại sứ mà người thứ nhất là ông Costler, Phó Giám Đốc Cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ, toà đại sứ Pháp rồi tới Tòa đại sứ Đức gặp ông Von Wenland. Ông Jacob, cố vấn văn hóa Tòa đại sứ Đức rất thiện cảm với chương trình của cha Luận đã ra Huế gặp cha và hai tháng sau bác sĩ Krainick, giáo sư thạc sĩ từng giảng dạy Đại học đường Y khoa Freiburg được phái đến Huế. Cha Luận vào Sài Gòn xin TT Diệm tài trợ bằng cách cho lấy tiền lời xổ số kiến thiết trong 8 kỳ rồi ngài cùng bác sĩ Lê Khắc Quyến đi Đức, gặp Thủ tướng tiểu bang Baden Baden là ông Keisinger. Ngài cũng gặp Tổng giám mục Freiburg là người có ảnh hưởng trong giới đại học. Lúc bấy giờ đại học Y khoa Freiburd đồng ý bảo trợ cho đại học Y khoa Huế. Ngài cũng ghé Thụy Sĩ nhưng không có sự giúp đỡ nào đáng kể. Cha Luận đi Ba Lê tìm Bác sĩ Lê Tấn Vĩnh là một người rất nổi tiếng đang làm việc với giáo sư Lelong. Bác sĩ Vĩnh về Huế làm Khoa trưởng Y khoa được vài tháng nhưng gặp sự đố kỵ của giới Y khoa Sài Gòn nên ông từ bỏ đất Huế vĩnh viễn.
        Niên khóa 1959, lớp dự bị y khoa đầu tiên của Đại học Y khoa Huế khai giảng với dàn giáo sư tạm đủ nhưng trường sở còn quá thiếu. Linh mục Luận tìm đến ông Seabern, đại sứ trưởng phái bộ Gia-Nã-Đại trong Ủy hội Kiểm soát Đình chiến, và được cấp 25 triệu cho Đại học Y khoa, 6 triệu cho Đại học Khoa học. Về phía Hoa Kỳ mãi đến khoảng năm 1961 họ mới giúp trang bị các phòng thí nghiệm và cấp 60 triệu xây cất thêm trường Đại học Sư phạm và trường Trung học Kiểu mẫu. Trong những năm từ 1957-1962, Viện Đại Học Huế tuần tự phát triển làm cho các nước Đồng Minh tin tưởng vào tương lai Việt Nam và sẵn sàng giúp VN mà không sợ phí.
        Ngoài ra một cơ quan rất cần nhắc lại ở đây đó là Tạp chí Đại Học vốn là cơ quan ngôn luận và nghiên cứu do linh mục Cao Văn Luận thành lập cùng với nhà in Đại Học (GS Nguyễn Văn Trường cho biết là do ông Đại sứ Ngô Đình Luyện tặng) đã để lại nhiều bài viết rất giá trị cho đến ngày nay. Về phương diện củng cố và phát triển Đại Học Huế, linh mục Cao Văn Luận nhận xét về TT Ngô Đình Diệm rằng: “Trong phạm vi phương tiện và khả năng của ông, tôi nhận thấy ông Diệm đã không ngần ngại một việc gì để giúp cho Đại Học Huế lớn mạnh. Ông có thể sai lầm về chính trị, nhưng những nỗ lực phát triển văn hóa điển hình là việc thành lập và mở mang Đại Học Huế, thì tôi thấy cần phải công tâm và nhận định rằng ông Diệm đã có công đáng kể. Biết bao nhiêu người quyền hành trong tay đã không làm được như ông Diệm.”(Bên Giòng Lịch Sử, trang 322).
        Sau khi ở Huế xảy ra vụ treo cờ Phật Giáo, rồi vụ nổ ở Đài phát thanh Huế khiến có người chết và bị thương, cuộc đấu tranh của Phật giáo chính thức bùng nổ. Linh mục Cao Văn Luận cho biết : “Ở cương vị một Viện Trưởng Đại Học, với truyền thống tự trị của Đại Học mà tôi đã thâm nhiễm từ Pháp, tôi không thể nào đi ngược lại các phong trào sinh viên mà tôi biết chắc trước sau cũng bùng lên.(Bên Giòng Lịch Sử, trang 337). Trung tuần tháng 5-1963, cha Luận cùng GS Âu Ngọc Hồ đi Mỹ, có tiếp xúc rất nhiều giới chính trị như TNS Mike Mansfield thuộc đảng Dân Chủ, TNS Dirksen thuộc đảng Cộng Hòa, cả hai đều tỏ ra thất vọng về chế độ của TT Diệm. Ngài cũng có gặp Robert Kennedy là người chỉ trích rất mạnh chế độ VNCH cùng với báo chí Hoa Kỳ. Một nhân vật tình báo, ông Fishell gặp cha Luận và cho biết nếu cụ Diệm không thay đổi đường lối thì nội trong năm 1963 Mỹ phải tìm cách loại bỏ cụ khỏi sân khấu chính trị VN. Khoảng đầu tháng 6-1963, linh mục Luận từ Nữu Ước được lệnh triệu hồi về Sài Gòn gặp TT Diệm. TT Diệm định cách chức một số khoa trưởng, giáo sư, vì họ không kiểm soát được sinh viên. Linh mục Luận vội ngăn lại và hứa cố gắng dàn xếp đã, sau đó được chăng hãy tính. Cha Luận về Huế rồi sau đó không lâu vào Sài Gòn gặp riêng TT Diệm cho biết nếu cụ có những thay đổi chính trị thì Mỹ có thể tiếp tục ủng hộ VN để chiến thắng Cộng sản.        
  Khoảng giữa tháng 8 năm 1963, do tình hình phức tạp ở Huế,  TT Diệm bãi chức Viện trưởng  Viện Đại Học Huế của linh mục Cao Văn Luận và đưa ông Trần Hữu Thế lên thay cha Luận. Chiều ngày 14-8 Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Nguyễn Quang Trình ra Huế thông báo quyết định bãi chức với cha. Sáng hôm sau ngài được lệnh bàn giao chức vụ Viện Trưởng, có mặt ông Nguyễn Quang Trình, Trần Hữu Thế và một ít khoa trưởng và giáo sư tham dự. Trong diễn văn ứng khẩu ngắn, linh mục Cao Văn Luận xin chuyển lời cám ơn TT Ngô Đình Diệm đã cất cho ngài khỏi gánh nặng làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế trong giai đoạn khó khăn và đầy trách nhiệm này. Ngài cũng mừng được trở lại đời sống tu hành và nhất là mừng vì ngọn đuốc văn hóa mà ngài và các cộng sự viên đã cố gắng nhóm lên ở Huế nay được trao cho một bàn tay khác hy vọng đủ khả năng làm bừng sáng lên…
        Sau ngày lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, những xáo trộn và hỗn loạn chính trị xảy ra đúng như sự lo sợ của linh mục Cao Văn Luận. Đối với TT Diệm, dù sao linh mục Cao Văn Luận cũng có mối tình tri ngộ, tình bằng hữu, và ngài không khỏi bùi ngùi cho số phận một dân tộc nhược tiểu, mang tiếng độc lập, nhưng mối dây cai trị đều trong tay một thế lực ngoại quốc. Ngài không mong cho cụ Diệm và chế độ của cụ sụp đổ mà chỉ mong tránh được những lỗi lầm để tồn tại.
        Thời gian không lâu sau, một Ủy ban đại diện sinh viên và Giáo sư Viện Đại Học Huế vào Sài Gòn mời linh mục Cao văn Luận ra Huế giữ chức Viện Trưởng lại, ngài từ chối; nhưng sau đó khi ông Nguyễn Ngọc Thơ, rồi Dương Văn Minh mời ngài vào gặp và khẩn khoản xin ngài nhận lại chức vụ cũ, cha Luận đồng ý sau khi cân nhắc kỹ càng khi có quyết định của Dương Văn Minh. Linh mục Cao Văn Luận nghĩ rằng nếu trở lại chức vụ Viện trưởng Đại Học Huế, ngài có thể chứng minh được rằng trước cũng như bây giờ đạo công giáo không hề có chủ trương kỳ thị tôn giáo. Trong những câu chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng tỏ lo lắng rằng nếu sinh viên Huế không có một vị Viện trưởng có uy tín hướng dẫn thì có thể tham gia vào những phong trào kỳ thị tôn giáo gây ra không biết bao nhiêu tang thương cho đất nước và khó khăn cho chính phủ. Tướng Dương Văn Minh cũng có những lo lắng tương tự. Hơn nữa vì tinh thần trách nhiệm và một số công việc còn dở dang và đó là những yếu tố ảnh hưởng trên quyết định trở lại chức vụ Viện trưởng của cha Luận. Tuy nhiên chỉ 8 tháng sau, vì chủ trương giữ cho Viện Đại Học Huế thuần túy chỉ lo việc văn hóa, đứng ngoài vòng tranh chấp chính trị mà linh mục Cao Văn Luận đành lòng vĩnh viễn xa rời cơ quan văn hóa trọng yếu của đất miền Trung này, trao công việc điều hành lại cho thế hệ khác.
        Tại Sài Gòn, linh mục Cao Văn Luận cư trú tại số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, là trụ sở của Giáo Phận Vinh, lo công tác mục vụ và giáo dục. Ngài dạy các Trường Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn về môn Pháp văn. Năm 1971, Ngài làm Cha Chính giáo phận Vinh di cư (Vicarius Generalis) thay thế cha Trương Cao Khẩn. Ngài là thành phần nồng cốt và chủ tịch của một trong những ban quan trọng thuộc Hội đồng nghiên cứu thành lập Hàn Lâm Viện Quốc Gia Việt Nam. Những ngày tháng chót ngài có chân trong Hội đồng Cố vấn của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn cầm đầu.
        Trước ngày 30-4-1975, linh mục Cao Văn Luận di tản ra nước ngoài, sống ở Vương quốc Bỉ, làm cha xứ Saint-Martin tại Acoz (Charlerois) một thời gian. Sau đó linh mục sang Hoa Kỳ, hưu dưỡng tại Dòng Đồng Công và qua đời tại Petaluma, California ngày 20-7-1986 trong chuyến viếng thăm thân nhân tại vùng này. linh mục Cao Văn Luận thọ 78 tuổi, 47 năm làm linh mục.

        “Cái quan định luận”…
        Kẻ sĩ vốn lấy sự trung tín với lý tưởng làm mẫu mực mà linh động xử trí, trong đó cổ nhân từng dạy câu sau đây như là một đạo sống: “Sư trúc tâm hư nhi hữu tiết; hiệu mai cốt thiết khả sinh xuân”   , , (nghĩa là: Học theo trúc, rỗng lòng nhưng mắt cứng; Bắt chước mai, xương sắt nảy mầm xuân). Trong lãnh vực này, linh mục Cao Văn Luận tỏ ra uyển chuyển hơn người.
        Xuất thân từ môi trường giáo dục trí thức Công Giáo, linh mục Cao Văn Luận sống cuộc đời một bậc “lương sư” đúng vào thời điểm phải đem kiến thức tài năng ra “hưng quốc”, phụng sự dân tộc trong trách nhiệm của mình, qua lãnh vực giáo dục.  Nhờ thời gian những năm sống và du học ngoại quốc và nhất là qua những nỗ lực vận động cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên khi trở về quốc nội, với tinh thần ái quốc dạt dào, ngài cũng đã tích cực dấn thân hết mình, thành tín trong lãnh vực văn hóa, giáo dục, sáng suốt trong cả phạm trù chính trị. Với tâm thức của một kẻ sĩ, linh mục Cao Văn Luận là người luôn cố gắng “tận nhân lực tri thiên mệnh”, có đức tính tự tin bởi lẽ trong những quyết định về văn hóa, giáo dục kể cả chính trị, không có tự tin sẽ không làm được gì. Vả lại nơi con người xứ Nghệ Tĩnh tự tin là một trong những nét độc đáo của họ vốn là khả năng tạo nên lịch sử như đã từng được chứng minh. Linh mục Cao Văn Luận là một mẫu người trí thức dấn thân vì trách nhiệm tự đặt ra cho mình hay vì thời cuộc sắp xếp. Là một Viện Trưởng có nhiều công lao khai sơn phá thạch nhất của Viện Đại Học Huế từ thoạt kỳ thủy nói riêng, và là một nhà văn hóa nổi tiếng nói chung, linh mục Cao Văn Luận đã thật sự có một chỗ đứng đặc biệt trong lòng các môn sinh của ngài; chỉ tiếc rằng lý tưởng “lương sư hưng quốc” của một bậc sĩ phu yêu nước như ngài chưa thực hiện được dài lâu, tuy vậy sự nghiệp văn hóa giáo dục của ngài cũng đã để lại dấu ấn bất hủ trong lịch sử văn hóa dân tộc.
                                                         
                            NGUYỄN ĐỨC CUNG
                          Philadelphia ngày 27-9-2015




       
               
       
         
       











               
       
       
       
       
       
       

       
       





Không có nhận xét nào: