TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 19
官 清 書 吏 瘦 , 神 靈 廟 祝 肥 。
Quan thanh thư lại xú, Thần linh miếu chúc phì.
Chú Thích :
Thư Lại : là Người thư ký của các quan ngày xưa.
Miếu Chúc : là Người giữ chùa, là Ông Từ.
Nghĩa Câu :
Ông quan thanh liêm thì người thư lại ốm (Vì phải làm việc nhiều mà không có tiền hối lộ). Còn... Ông thần linh thiêng thì ông Từ giữ chùa mập (Vì có rất nhiều người đến cúng thần và... ông Từ được hưởng hết!)
息 卻 雷 霆 之 怒 , 罷 卻 虎 狼 之 威 。
Tức khước lôi đình chi nộ, Bãi khước hổ lang chi uy.
Chú Thích :
Tức : là Nghỉ ngơi, dập tắt, dẹp bỏ. Tức Khước: là Dẹp đi.
Bãi : là Miễn, là Bỏ, là Thôi. Bãi Khước : là Bỏ đi.
Nghĩa Câu :
Hãy dẹp bỏ cái cơn giận lôi đình đi, và hãy thôi đi cái uy vũ như cọp như sói kia đi.
Đừng có giận hờn nổi cơn thịnh nộ như sấm như sét nữa, và cũng đừng có làm hùm làm hổ như sói như lang nữa! Hãy bình tỉnh lại để giải quyết tình huống trước mắt cho hợp tình hợp lý!
饒 人 算 人 之 本 , 輸 人 算 人 之 機。
Nhiêu nhân toán nhân chi bổn, Thâu nhân toán nhân chi cơ.
Chú Thích :
Nhiêu : là Nhiêu dung, Tha thứ.
Toán : là Tính toán, là Kể như.
Thâu : là Chuyên chở (có bộ Xa một bên). Ở đây nghĩa là: Thua.
Cơ : là Cái Máy như Thiên Cơ là Máy trời. Cơ Khí là Máy móc. Ở đây có nghĩa là Cơ trí, cơ biến.
Nghĩa Câu :
Tha thứ cho người ta là cái gốc để ta hơn người. Chịu thua người khác là cái cơ trí để thắng người về sau.
Tha thứ sẽ làm cho người ta cảm kích, để dễ dàng chinh phục người ta hơn. Chịu thua người khác trước mắt, để đối phương dễ ngươi mất cảnh giác, là cái cơ trí để thắng người ta dễ dàng hơn ở sau nầy.
筍 因 落 籜 方 成 竹,魚 爲 奔 波 始 化 龍.
Duẫn nhân lạc thác phương thành trúc, Ngư vị bôn ba thỉ hóa long.
Chú Thích :
Duẫn : là Măng tre.
Thác : là Bẹ măng.
Bôn Ba : Vượt qua sóng.
Thỉ (Thủy) : là Mới (có thể).
Nghĩa Câu :
Măng non phải rụng hết những bẹ măng mới thành cây tre được. Còn cá phải vượt qua sóng gió thì mới hóa thành rồng được.
Theo truyền thuyết, cá Lý Ngư vượt qua được 3 đợt sóng ở Long Môn thì sẽ hóa thành con rồng. Cá hóa rồng, một sự trở mình vượt bực, một sự thành công vượt trội hơn bình thường mà cha mẹ nào cũng mong ước cho con cái mình được như thế. Vì vậy, mà lại hình thành thêm một thành ngữ "Vọng tử thành long" 望 子 成 龍 (Mong con hóa rồng), có nghĩa: Mong cho con mình làm nên những thành tích vẻ vang, thành công một cách rực rở, vượt trội khác thường!
Ý Câu là : Muốn trưởng thành, muốn thành nhân, thành công, phải có quá trình phấn đấu vất vả lắm mới đạt được mục đích, chớ không phải "Vậy đó, bỗng dưng mà họ lớn" như Thi sĩ Huy Cận đã diễn tả đâu!
好 言 難 得 , 惡 語 易 施 。
Hảo ngôn nan đắc, Ác ngữ dị thi.
Nghĩa Câu :
Lời nói tốt khó được, Lời ác độc dễ thực hiện.
Những lời chúc tụng tốt lành là chỉ chúc cho có, chúc theo thói quen, chúc theo tập quán... chớ người được chúc chưa chắc đã tốt được như những lời chúc. Còn những lời nguyền rủa ác độc, xui xẻo... nhiều khi lại rất dễ xảy đến với đối tượng!
一 言 既 出 , 駟 馬 難 追 。
Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy.
Chú Thích :
Ký : là Đã. Ký Xuất : là Đã nói ra.
Tứ : Chữ TỨ nầy gồm có Bộ MÃ 馬 và chữ TỨ 四, nên có nghĩa là : Xe do 4 con ngựa kéo.
Nghĩa Câu :
Một lời đã nói ra, thì xe bốn ngựa (xe có tốc độ cao lúc xưa) cũng khó mà đuổi theo (để lấy lại lời nói đó) cho được!
Tiếng Việt ta cũng có câu: "Bút sa là gà chết" để chỉ hễ hạ bút ký rồi thì mọi việc đều được quyết định, không còn hối được nữa! Lời đã nói ra rồi thì không sao lấy lại cho được, nên trước khi nói phải rất thận trọng và phải rất cân nhắc lời nói của mình trước khi cho nó ra khỏi miệng! Ông bà ta dạy: "Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói" là vì thế!
道 吾 好 者 是 吾 賊 , 道 吾 惡 者 是 吾 師.
Đạo ngô hảo giả thị ngô tặc, Đạo ngô ác giả thị ngô sư.
Chú Thích :
Ngô : là Tôi , là Ta, là Tao.
Nghĩa Câu:
Bảo ta tốt là giặc của ta, Bảo ta ác là thầy của ta.
Ngưòi nào đó luôn luôn khen ta hay, ta tốt (để cho ta dễ ngươi, mất cảnh giác, kiêu ngạo, tưởng rằng mình giỏi lắm, hay lắm!) Người đó chính là kẻ thù của ta đó! Còn người nào luôn luôn vạch ra cái khuyết điểm, cái xấu, cái dở của ta, thì người đó chính là thầy của ta đó! Vì có thấy được những nhược điểm của mình ta mới biết đường mà sửa sai, điều chỉnh lại cho hay cho đúng!
路 逢 險 處 須 當 避, 不 是 才 人 莫 獻 詩 。
Lộ phùng hiểm xứ tu đương tị, Bất thị tài nhân mạc hiến thi.
Nghĩa Câu :
Trên đường đi mà gặp chỗ nguy hiểm thì nên tránh ra (tìm hướng khác mà đi). Không phải là người tài hoa thì không hiến dâng những bài thơ cho người đó.
Bất chấp dư luận, ai nói gì thì nói, ta nên làm theo những gì mà ta thấy là hợp lý. Bảo là mình nhác cũng được, chả lẽ thấy chỗ nguy hiểm lại đút đầu vào? Bảo là xu nịnh người giỏi cũng được, chả lẽ lại dâng thơ cho người dốt, người không biết thưởng thức cái hay của thơ?
三 人 同 行 , 必 有 我 師 焉 ,
Tam nhân đồng hành, Tất hữu ngã sư yên,
擇 其 善 者 而 從 之 , 其 不 善 者 而 改 之 。
Trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi, Kỳ bất thiện giả nhi cải chi.
Chú Thích :
Yên : Ở đây là Trợ Từ, có nghĩa là Đó, Vậy.
Trạch : là Chọn, Lựa.
Thiện : là Hiền, là Giỏi, là Tốt.
Đây là câu nói của Đức Khổng Phu Tử, trong chương 7 Thuật Nhi của sách Luận Ngữ.
Nghĩa Câu :
Ba người cùng đi, thế nào cũng có một người là thầy của ta đó. Chọn người giỏi mà học theo, còn người không giỏi, không đúng, thì ta sửa đổi ta lại (nếu ta có cùng khuyết điểm).
少 壯 不 努 力 , 老 大 徒 悲 傷 。
Thiếu tráng bất nổ lực, Lão đại đồ bi thương.
Chú Thích :
Đồ : Ở đây có nghĩa là Uổng phí, Vô Ích .
Nghĩa Câu
Còn trẻ, còn khỏe mà không nổ lực, không cố gắng, thì khi lớn, khi già có buồn rầu hối tiếc cũng vô ích mà thôi.
人 有 善 願 , 天 必 佑 之 。
Nhân hữu thiện nguyện, Thiên tất hựu chi.
Chú Thích :
Hựu : là Phù hộ.
Nghĩa Câu :
Người mà có ý nguyện, mong ước hiền lành, thì Trời thế nào cũng phù hộ cho họ.
(Còn tiếp)
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét