Thứ Hai, 2 tháng 8, 2021

TĂNG QUẢNG HIÊN VĂN 2 (Đỗ Chiêu Đức sưu tầm và diễn dịch)


TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 2                 近 水 知 魚 性 , 近 山 識 鳥 音 。               Cận thủy tri ngư tánh, cận sơn thức điểu âm.

       TÁNH : còn đọc là TÍNH. Tính tình hay tánh tình là Cái THÓI.  NGHĨA CẢ CÂU :             Ở gần nước thì sẽ biết thói quen của Cá, (cũng như)  Ở gần núi thì sẽ biết (phân biệt ) được tiếng hót của các loài Chim. Câu nầy chỉ, tùy theo môi trường mà ta đang sống có thể tạo nên cho ta những kỷ năng, khả năng đặc biệt.                   易 漲 易 退 山 溪 水 , 易 反 易 覆 小 人 心 。  Dị trướng dị thối sơn khê thủy, Dị phản dị phúc tiểu nhân tâm. 

        DỊ : Hình dung từ, có nghĩa là Dễ, dễ dàng.         Động từ, đọc là DỊCH, có nghĩa là Thay đổi. Vd: Dịch lý.         TRƯỚNG : là Tràn trề. Gồm 3 chấm Thủy chỉ Ý và chữ Trương chỉ Âm.         THỐI : Còn đọc là THOÁI, có nghĩa Trở lui, Thụt lùi, Rút.         KHÊ : Ta đọc trại thành KHE, là Dòng nước từ trong núi chảy ra, nên thường được gọi là Sơn Khê. Tương đương với SUỐI.         PHẢN : là Ngược lại, Chỏi lại, Trở mặt.         PHÚC : là Che phủ, Bao phủ. Vd: Thiên Phúc Địa Tải 天 覆 地 載, là Trời che Đất chở, là Lật nhào, Lật úp. Vd: Phúc chu 覆 舟 là Thuyền bị lật úp, là Chìm ghe, là LẬT NGƯỢC LẠI. Vd: Phản Phúc.

        NGHĨA CẢ CÂU :                Dễ tràn dễ rút là nước trong khe núi chảy ra, (hễ mưa xuống là nước tràn lan, còn trời nắng thì nước cạn queo.) Dễ trở mặt và lật ngược lật ngang là lòng dạ của kẻ tiểu nhân. (Phải nên cẩn thận đề phòng).                          運 去 金 成 鐵 , 時 來 鐵 似 金 .                Vận khứ kim thành thiết, thời lai thiết tự kim.

          Khi thời vận xoay chuyển đi rồi, tức là khi Hết Thời rồi, thì vàng trở thành sắt. Ví dụ như trong nạn đói vì khan hiếm lương thực, có vàng cũng không mua được thức ăn. Và... Khi thời vận đến rồi, thì sắt cũng quí tợ như vàng. Ví dụ như sau Thế Chiến Thứ 2, sau chiến tranh đổ nát, cần xây dựng lại, nên những nhà đầu cơ buôn bán sắt lại trở nên giàu sụ, vì sắt quí... như vàng !                          讀 書 須 用 意 , 一 字 值 千 金 。                Độc thư tu dụng ý, Nhất tự trị thiên kim.

        ĐỘC THƯ : là Đọc sách, nhưng ở đây có nghĩa là Học Hành, chớ không phải đọc sách khơi khơi, vì ngày xưa Đọc Sách tức là HỌC.          TU 須 : là Cần Phải, khác với TU 修 là Sửa Đổi, Tu Tập.         TRỊ : là Đáng Giá. Khi đọc là TRỰC thì có nghĩa là Canh Giữ, Ví dụ : Trực Nhật, Trực Ban.    

NGHĨA CẢ CÂU :

        Học hành cần phải để ý (học cho đàng hoàng), vì... Một chữ (nhiều khi)  đáng giá cả ngàn vàng lận! Ngày xưa học chữ NHO nên Một Chữ đáng giá Ngàn Vàng, ngày nay học Luật, Một Chữ nhiều khi còn đáng giá hơn cả Ngàn Vàng nữa là khác!              逢 人 且 說 三 分 話 , 未 可 全 拋 一 片 心 。     Phùng nhân thả thuyết tam phân thoại, Vị khả toàn phao nhất phiến tâm.

      THẢ : Chữ Thả ở đây có nghĩa như chữ CHỈ, Chỉ nên.       VỊ KHẢ : là Không Thể, ở đây có nghĩa là Không Nên.       PHAO : là Ném, là Quăng, là Liệng. Ở đây có nghĩa là TRÚT.        NHẤT PHIẾN : là Mạo từ (article), có nghĩa Một Tấm, Một Miếng, Một Mảnh.

NGHĨA CẢ CÂU :             Gặp người nào đó chỉ nên nói ba phần chuyện của mình thôi, chớ không nên trút hết cả bầu tâm sự của mình với người khác. Có nhiều người mới gặp mặt chưa thân thiết là bao mà đã mang cả chuyện gia đình ra mà... tâm sự,  gởi gắm tâm sự không đúng đối tượng, không hợp thời điểm, chẳng những làm cho người... được nghe tâm sự đâm ra nhàm chán, mà lắm khi còn đâm ra bực mình nữa! Vạch lưng cho người xem thẹo, hại nhiều lợi ít!               有 意 栽 花 花 不 發 , 無 心 插 柳 柳 成 陰 。     Hữu ý tài hoa hoa bất phát, Vô tâm tháp liễu liễu thành âm.

         TÀI : là Trồng. Tài Hoa là Trồng bông.          PHÁT : là Mọc lên, Vượt lên, Phát Triển.          THÁP : là Cắm, là Ghép, là Chen Vào. như Tháp Tùng chẳng hạn.          ÂM 陰 : là trái với DƯƠNG, Ở đây có nghĩa thông dụng với chữ ÂM có Thảo đầu 蔭, là Bóng Râm, Bóng Mát. Trong câu có nghĩa là Xanh om, Rậm rạp.

      NGHĨA CẢ CÂU :               Có ý trồng hoa thì hoa không mọc, Vô tình cắm nhánh liễu (xuống đất) thì liễu lại xanh om. Ở đời, có nhiều việc ta cố tâm để làm, mà không có thành tựu gì cả. Còn có những việc ta chỉ làm chơi chơi thôi, không chờ đợi thành tựu, mà lại có kết quả tốt bất ngờ.              Cố ý đeo đuổi, tốn nhiều công sức thời gian để tỏ tình với người nào đó, nhưng họ lại làm ngơ như không hay biết. Có khi, chỉ buông lời trêu ghẹo khơi khơi thôi mà có người lại thương yêu thật tình.               畫 虎 畫 皮 難 畫 骨 , 知 人 知 面 不 知 心 。     Họa hổ họa bì nan họa cốt, Tri nhân tri diện bất tri tâm.        HỌA : là Vẽ. Chữ nầy được ghép bởi bộ DUẬT 聿 là Cây Viết, bên dưới là chữ Điền 田 là Miếng Ruộng và Chữ Nhất 一. Nghĩa Hội Ý là thuở ban sơ người ta dùng cây viết ghi lại miếng đất trồng trọt của mình trong phạm vi giới hạn (chữ Nhất), nên có nghĩa VẼ là vậy.      NAN : là Khó, Khó khăn. Khi đọc là NẠN thì có nghĩa là Tai Nạn.      CỐT: là Xương. Nghĩa bóng là Cái Dáng Vẻ bên trong, Vd : CỐT CÁCH.

NGHĨA CẢ CÂU :              Vẽ cọp vẽ da của nó, khó vẽ, nhưng còn vẽ được, chứ xương ở bên trong của nó thì vô phương vẽ được, Cũng như con người, ta chỉ biết bề ngoài , mặt mũi, chớ không thể nào biết được trong lòng của người ta như thế nào! (tốt hay xấu, thiện hay ác??!! ).            Đây là kiểu nói theo ngày xưa, chớ hiện nay, vẽ xương cọp đâu có khó khăn gì! Khoa học kỹ thuật tiến bộ, người ta vẽ cả hình dáng những con vi khuẩn nhỏ hơn mắt thường nhìn thấy cả triệu lần! Đây là câu nói theo kiểu Lung Khởi để đưavào ý chính ở câu sau là: Lòng người khó lường, ai tốt ai xấu rất khó phân biệt, không thể xem mặt mà bắt hình dong được! Luôn luôn phải đề phòng cảnh giác với tất cả mọi người chung quanh. Nói thế tuy có hơi bi quan, nhưng Cẩn tắt vô ưu vẫn hơn!                      錢 財 如 糞 土 , 仁 義 值 千 金 。           Tiền tài như phân thổ, Nhân nghĩa trị thiên kim.

 NGHĨA CÂU NÓI :             Tiền bạc tài sản như phân (cứt) như đất, (ta nói là như cỏ như rác, không có giá trị). Nhân từ nghĩa hiệp mới đáng giá ngàn vàng. Ý câu nói nầy là đề cao NHÂN NGHĨA, coi nhẹ TIỀN TÀI. Vì người đời luôn luôn coi trọng TIỀN TÀI hơn NHÂN NGHĨA, câu nói trên thường được nói lại với giọng điệu mỉa mai như sau:        " Tiền tài như ông Tiên Tổ, Nhân nghĩa tợ cục cứt khô! "             Người đời, ngoài miệng luôn luôn nói nhân nói nghĩa, nhưng trong bụng lại vẫn cứ xem trọng tiền tài hơn.                     流 水 下 灘 非 有 意 , 白 云 出 岫 本 無 心 。                    當 時 若 不 登 高 望 , 誰 信 東 流 海 樣 深 。      Lưu thủy hạ than phi hữu ý, Bạch vân xuất tụ bổn vô tâm.     Đương thời nhược bất đăng cao vọng, Thùy tín đông lưu hải dạng thâm.               THAN : là Cái Bãi. Ví dụ : Bãi sông, Bãi biển.               TỤ : là Hang Núi.               NHƯỢC: là Nếu, Nếu như.

 NGHĨA CẢ CÂU :               Nước chảy tuôn xuống dưới bãi là không phải có ý muốn chảy xuống bãi, cũng như mây trắng bay ra khỏi hang núi là do gió đưa tự nhiên, chớ không phải bản tâm mây muốn bay đi. Lúc đó, nếu không có lên trên cao mà nhìn xuống, thì có ai tin được rằng, nước chảy về biển đông là thăm thẳm như thế kia đâu!                Câu nầy để dùng các trường hợp chỉ sự đưa đẩy tự nhiên, chẳng đặng đừng, những diễn biến tự nhiên mà bản thân mình không thể khống chế được, chớ bản tâm không hề muốn thế.

(Còn tiếp)

Đỗ Chiêu Đức






Không có nhận xét nào: