TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 5
近 水 樓 台 先 得 月 , 向 陽 花 木 早 逢 春 。
Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt, Hướng dương hoa mộc tảo phùng xuân.
NGHĨA CÂU :
Những lâu đài được xây gần bờ nước (sông hồ, biển cả) sẽ ngắm được cảnh trăng mọc sớm hơn những nơi khác. Còn những hoa cỏ mà hướng về ánh thái dương, sẽ đón nhận được ánh nắng mùa xuân trước hơn là những hoa cỏ khác. Đây là cái thế về địa hình, hoàn cảnh, xu hướng... Ai đắc thế thì sẽ hơn. Hai chàng cùng quyết tâm theo đuổi một nàng, thì chàng nào ở gần hoặc có dịp gần gũi nhiều hơn, chàng đó sẽ dễ dàng chiếm được trái tim của người đẹp hơn. Câu nói nầy phổ biến rộng rãi đến nỗi hình thành một thành ngữ 4 chữ "CẬN THỦY LÂU ĐÀI" 近 水 樓 臺 . Vd : Nó là thơ ký riêng của xếp, ở cái thế CẬN THỦY LÂU ĐÀI nên lên lương sớm hơn người khác là phải rồi! Và còn có một dị bản sau:
Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt,
Hướng dương hoa mộc DỊ VI XUÂN. 易 爲 春.
古 人 不 見 今 時 月, 今 月 曾 經 照 古 人.
Cổ nhân bất kiến kim thời nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
KIM THỜI : là Thời buổi nầy, có nghĩa là Hiện nay.
TẰNG KINH : là Từng trãi, ở đây có nghĩa là Đã Từng.
NGHĨA CỦA CÂU :
Người xưa không thấy được vầng trăng của ngày nay, chớ Vầng trăng của ngày nay đã từng chiếu rọi người xưa rồi! Đọc câu nầy, lại nhớ đến bài Hát nói Hưởng Nhàn của Nguyễn Công Trứ:
"Ngã kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi"
我 今 日 在 坐 之 地,古 之 人 曾 先 我 坐 之。
(Cái chỗ mà ta đang ngồi ngày hôm nay, thì người xưa đã từng ngồi đây trước ta rồi!)
莫 道 君 行 早 , 更 有 早 行 人 。
Mạc đạo quân hành tảo, Cánh hữu tảo hành nhân.
MẠC ĐẠO : là Đừng nói rằng, Ở đây có nghĩa: Đừng tưởng rằng.
QUÂN : Quân ở đây không phải là VUA, mà là Ngôi thứ 2 trong danh xưng Đại từ, nên có thể là Nam, có thể là Nữ.
CÁNH HỮU : là Càng có, Ở đây có nghìa: Còn có.
NGHĨA CẢ CÂU :
Đừng tưởng rằng bạn là người đi sớm, đến sớm đâu, còn có người đi sớm, đến sớm hơn nữa. Câu trước nói về lợi thế của Địa lý, hoàn cảnh... "Cận thủy lâu đài". Câu nầy nêu lên lợi thế về cố gắng, tích cực, người nào tích cực hơn (đi sớm), thì người đó sẽ dễ dàng đạt mục đích hơn.
Đây là bản TQHV bằng điện tử trên mạng, theo bản xưa mà hồi nhỏ Ba tôi thường lấy ra đọc để răn dạy chúng tôi, thì trước 2 câu trên còn có 2 câu như thế nầy:
先 到 爲 君 , 後 到 爲 臣 。
Tiên đáo vi quân , Hậu đáo vi thần.
莫 道 君 行 早 , 更 有 早 行 人 。
Mạc đạo quân hành tảo, Cánh hữu tảo hành nhân.
Nghĩa là :
Ai đến trước thì làm vua, Ai đến sau thì làm tôi.
Đừng tưởng bạn là người đến trước, còn có người đến sớm hơn bạn nữa!
莫 信 直 中 直 , 須 防 仁 不 仁 。
Mạc tín trực trung trực, Tu phòng nhơn bất nhơn.
MẠC TÍN : là Chớ tin.
TU PHÒNG : là Nên đề phòng.
NGHĨA CÂU :
Chớ vội tin (người nào đó) là rất thẳng thắng (thẳng thắng trong thẳng thắng), mà phải nên đề phòng những người bất nhơn làm bộ nhơn nghĩa (không nhơn nghĩa mà làm như nhơn nghĩa)
Câu nầy dùng để khuyên những người trẻ mới ra đời, chưa có kinh nghiệm sống, dễ tin người nên dễ bị người lừa bịp.
山 中 有 直 樹 , 世 上 無 直 人 。
Sơn trung hữu trực thọ, Thế thượng vô trực nhân.
TRỰC : là Thẳng, là Ngay. Vừa nghĩa đen vừa nghĩa bóng.
NGHĨA CÂU :
Trong núi rừng còn có cây ngay thẳng, chớ ở trên đời nầy không có người ngay thẳng đâu! Câu nói bi quan quá! Nặng tính cảnh giác để giáo dục những người trẻ mới ra đời chưa có kinh nghiệm nhận xét đánh giá người khác. Nó hô ứng với câu trước nó là: "Mạc tín trực trung trực, Tu phòng nhân bất nhân". Nhưng dù sao thì cẩn thận vẫn hơn, "Cẩn tắc vô ưu" mà!
自 恨 枝 無 葉 , 莫 怨 太 陽 偏 。
Tự hận chi vô diệp, Mạc oán thái dương thiên.
TỰ HẬN : là Tự mình oán trách mình.
CHI VÔ DIỆP : Chi là Cành, là Nhánh. Vô là không, không có. Diệp là LÁ. CHI VÔ DIỆP là Cành không lá. Ta có thành ngữ : "Kim CHI ngọc DIỆP" là "CÀNH vàng LÁ ngọc" để chỉ những người quý phái.
MẠC OÁN : là Đừng oán hận.
THIÊN 偏 : là Chệch một bên, Nghiêng về một phía. Chớ không phải THIÊN 天 là Trời.
NGHĨA CẢ CÂU :
Nên tự mình oán trách là tại cành nhánh của mình không có lá, chớ đừng oán trách là tại ánh nắng thiên lệch chiếu về chỗ của mình ít hơn chỗ khác. Phải biết chấp nhận thực tế và phải tự biết là tại khả năng của mình không có, hoặc chưa tới, chớ đừng oán trách là tại sao "xếp" không trọng dụng mình mà trọng dụng người khác. Thường thì con người ta chỉ biết "phân bì" mà không biết "tự lượng".
大 家 都 是 命 , 半 點 不 由 人 。
Đại gia đô thị mệnh, Bán điểm bất do nhân.
ĐẠI GIA : là Tất cả, là Mọi người. Khác với Đại Gia 大爺 là Ông Lớn.
ĐÔ : là Đều. Đô Thị : Đều Là. Khác với Đô Thị 都 市 là Chợ Búa.
MỆNH : là Mạng số, Số mạng.
BÁN ĐIỂM : là Nửa chấm. Có nghĩa như: Một chút, "Nửa chút" của ta vậy.
NGHĨA CÂU :
Tất cả mọi người đều là do số mệnh an bài cả rồi, không có "nửa chút" nào là do người quyết định được cả! Câu nầy quá Duy Tâm, nhưng chủ ý là khuyên ta nên an phận thủ thường, chấp nhận hiện tại, đừng quá bon chen, chớ không phải bảo ta buông xuôi tất cả cho số mạng một cách dị đoan. Câu nầy còn dùng để an ủi người khác khi thất bại để đừng chán nản quá mà hãy chấp nhận thực tại hầu cố gắng "bày lại keo khác"!
一 年 之 計 在 於 春 , 一 日 之 計 在 於 寅 ,
Nhất niên chi kế tại ư xuân, Nhất nhật chi kế tại ư dần,
一 家 之 計 在 於 和 , 一 生 之 計 在 於 勤 。
Nhất gia chi kế tại ư hòa, Nhất sinh chi kế tại ư cần.
KẾ : là Tính toán : KẾ TOÁN.
là Mưu Lược : TAM THẬP LỤC KẾ .
là Hoạch Định, Chương Trình : KẾ HOẠCH : Đây chính là nghĩa trong câu nói trên.
CHI : ở đây là Hình Dung từ chỉ Sỡ Hữu: CỦA.
NGHĨA CỦA NHỮNG CÂU TRÊN :
Những chương trình hoạch định cho một năm phải bắt đầu từ mùa XUÂN, Những tính toán dự định trong một ngày phải bắt đầu từ giờ DẦN (từ 3 đến 5 giờ sáng). Những kế hoạch để xây dựng gia đình cho êm ấm là chỉ ở một chữ HÒA (trên thuận dưới hòa). Còn những hoạch định tính toán dự trù cho cả một đời người là chỉ một chữ CẦN mà thôi! (Nếu chịu khó siêng năng cần cù, thì trong cuộc đời dù không thành công lớn, cũng thành công nhỏ và có tệ nhất thì cũng... đù ăn đủ mặc, không đến nỗi đói rách lang thang.)
"Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ" 天 有 四 時 春 在 首. Trời có 4 mùa thì mùa XUÂN là mùa đầu tiên, tiết trời đã ấm áp trở lại sau mùa đông giá rét, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, vạn vật đều tái sinh, khí thế đang lên, nên các kế sách dự định trong năm cũng nên bắt đầu ở thời điểm nầy... Hơn nữa, nếu có gì trục trặc
thì cũng có đủ thời gian để... điều chỉnh lại! Kế hoạch trong năm bắt đầu ngay được từ mùa Xuân, thì xem như đã thành công một nửa rồi!
"Thiên quang DẦN, nhật xuất MÃO" 天 光 寅,日 出 卯 . Trời sáng ở giờ Dần, mặt trời mọc ở giờ Mão, nên công việc dự định trong ngày nên bắt đầu ngay từ giờ DẦN. Nông dân làm ruộng cũng thế, muốn gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa... đều phải thức giấc lúc giờ Dần để bắt đầu cho công việc đồng áng. Ngày xưa, phương tiện giao thông khó khăn, nên định đi đâu để làm gì thì cũng phải thức giấc lúc giờ DẦN.
"HÒA khí sanh tài" 和 氣 生 財 . Có Hòa Thuận để làm ăn thì mới phát sinh tài lộc được, gia đình xào xáo, mỗi người một ý, thì làm ăn làm sao lên cho được! Ông bà cũng đã dạy "Gia HÒA thì Vạn sự Hanh 亨 ". Có nghĩa : Gia đình Hòa Thuận thì muôn việc đều suôn sẻ. (Hanh thông 亨 通 là Suôn sẻ). Câu nầy thường bị đọc lệch đi là "Gia Hòa vạn sự HƯNG 興 (Hưng là Hưng Vượng 興 旺 ), ý nghĩa cũng tương tự mà thôi.
Cuối quyển Tam Tự Kinh có câu: "CẦN hữu công, Hí vô ích" 勤 有 功,戲 無 益. Nghĩa đã rõ : Chơi bời lêu lỏng không đem lại lợi ích gì cả, còn Siêng Năng cần cù thì sẽ gặt hái được thành công trong mọi mặt, nên trong cuộc đời của một người, yếu tố "CẦN" không thể thiếu trong việc tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho gia đình được!
Còn tiếp
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét