TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN
增 廣 賢 文
LỜI PHI LỘ
Đây là loạt bài viết theo yêu cầu của một số em học sinh cũ của Trường Trung Tiểu Học TÂN HƯNG ở Thị Trấn Cái Răng, nhằm mục đích ôn tập để nhớ lại các chữ Hoa đã học bao nhiêu năm trước đây, và đồng thời cũng học thêm được những chữ, những từ chưa được học.
Song song với việc học tập mặt chữ cũng nhân dịp để tìm hiểu, nghiền ngẫm lại những triết lý, luân lý, kinh nghiệm thực tiễn... trong cuộc sống hằng ngày chung quanh ta, hầu có được cái nhìn tổng quát về quan điểm sống theo luân lý Á Đông vốn chịu nhiều ảnh hưởng của học thuyết Khổng Mạnh.
Kết hợp với những thực tế của cuộc sống hiện tại, của xã hội mà ta đang sống, để châm chước, cân nhắc, so sánh và chọn lọc những cái tốt, những cái nhân bản cần phải gìn giữ, và đồng thời cũng tránh né, loại bỏ, cảnh giác với những gì thuộc về quá khứ, lạc hậu... hầu chọn cho mình một thái độ sống thích hợp hơn với xã hội mà mình đang sống.
Đối tượng chính của các bài viết là các em cựu học sinh TÂN HƯNG, sẵn gởi luôn đến cho Quý Thầy Cô, Quý Huynh Trưởng, Đồng học Đồng Môn, Bạn Hữu... để đọc chơi tiêu khiển khi trà dư tửu hậu, đồng thời cũng để cùng xem xét, trao đổi và góp ý, chỉ giáo cho những gì còn SAI, SÓT hoặc cần phải bổ sung.
Chân thành cảm tạ.
Đỗ Chiêu Đức.
kính bút
.................................................................................
增 廣 賢 文
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 1
Tăng Quảng Hiền Văn là một áng văn tập họp lại tất cả những những thành ngữ tục ngữ, những câu nói nôm na trong dân gian xen lẫn với các lời dạy của Thánh Hiền, tất cả được sắp xếp theo vần điệu dễ nhớ để cảnh giác và răn dạy người đời, để tu tập cho bản thân mà cũng để làm những lời răn dạy cho con cháu.
Áng văn nầy thường thấy trong các cuốn lịch Thông Thắng 通 勝 dùng để xem ngày tốt xấu của người Hoa và của các ông thầy Tướng Số. Trước đây, ở Chợ Lớn cũng có in riêng thành từng quyển nhỏ cho tiện việc học hành, nghiên cứu và mang theo bên mình để có thể giở ra xem bất cứ lúc nào.
Xin được dịch và giới thiệu với mọi người Áng Văn bất hủ nầy.
TĂNG QUẢNG là làm cho Gia tăng và Mở rộng.
HIỀN VĂN là Áng văn hay, áng văn dạy những điều tốt lành.
TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 增 廣 賢 文 là Áng văn hay, dạy cho ta những điều tốt điều lành và làm cho ta gia tăng và mở rộng thêm kiến thức về mọi mặt của cuộc sống.
Xin hãy cùng nhau đọc và tìm hiểu áng văn nầ
昔 時 賢 文 , 誨 汝 諄 諄 , 集 韻 增 廣, 多 見 多 聞 。
Tích thời hiền văn, hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn .
TÍCH 昔: Ghép bởi Trấp (Niệm ) 廿 Nhất 一 Nhật 日, tức 21 ngày. Chuyện gì đó qua ba bảy 21 ngày là CŨ rồi nên TÍCH có nghĩa là XƯA, CŨ. Đi với chữ Thời chỉ thời gian thành TÍCH THỜI : Có nghĩa là Thuở Xưa, Hồi xưa. Sở Khanh đã dùng chữ Tích nầy ghép với chữ Việt, thành TÍCH VIỆT 昔 越, để hẹn cô Kiều bỏ trốn vào giờ Tuất của ngày 21, cô Kiều đã rất thông minh nên bị mắc bẩy:
Lấy trong ý tứ mà suy,
Ngày hai mươi mốt, tuất thì, phải chăng ?
HỐI 誨 : là Dạy dỗ. Giáo Hối là Dạy bảo.
NHỮ 汝: là Ngôi Thứ Hai trong đàm thoại , là Ông, Bà, Anh, Chị, mày...
TRUÂN 諄 : là Chăm chỉ, Tích cực.
TẬP VẬN 集 韻 : là Tập hợp lại theo vần theo điệu.
KIẾN VĂN : 見 Chữ KIẾN gồm có 2 chữ MỤC 目là Mắt và NHÂN 人 là Người, nên KIẾN là Mắt của con người, có nghĩa là NHÌN, THẤY. 聞 VĂN gồm 2 chữ Môn 門 và Nhĩ 耳, Hội ý là đưa lổ tai ra cửa để nghe ngóng, nên có nghĩa là NGHE, nên KIẾN VĂN là Nghe Thấy, chỉ sự Hiểu biết, Kiến thức.
NGHĨA CẢ CÂU :
Những câu văn hay ngày xưa, lúc nào cũng như đang dạy ta một cách rất tích cực, gom góp lại những câu nói cho thành vần điệu với sự hiểu biết về mọi mặt ( Đa kiến đa văn ). Bình thường ta có thể dùng thành ngữ ĐA KIẾN ĐA VĂN để chỉ những người có sự hiểu biết và kiến thức rộng rãi, quảng bác. Ví dụ: "Ông ấy là người chuyện gì cũng biết, việc gì cũng thông cũng thạo, quả là người Đa Kiến Đa Văn ! ".
觀 今 宜 鑒 古 , 無 古 不 成 今 。
Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim.
QUAN : là xem xét, quan sát.
GIÁM : là Cái gương, Động từ có nghĩa là Soi, Rọi. Ta có quyển "MINH TÂM BỬU GIÁM" là Tấm gương quí để soi rọi cho lòng được sáng ra ! ".
NGHĨA CÂU TRÊN :
Xem xét chuyện ngày nay để tiện việc soi rọi lại những sự việc ngày xưa, (vì) Không có xưa thì không thành ngày nay. Ý nói: Không có xưa làm sao có được ngày nay. Ví dụ: Trong một buổi họp mặt, có người bảo với bạn là: "Chị mặc chiếc áo nầy đẹp nhưng kiểu dáng xưa quá đi!" Bạn sẽ bảo với họ rằng: "Vô Cổ Bất Thành Kim mà, không có xưa làm sao có nay đươc!"
知 己 知 彼 , 將 心 比 心 。
Tri kỷ tri bỉ , tương tâm tỉ tâm.
KỶ là TỰ KỶ 自 己 : là Bản thân mình, là TA, là Mình.
BỈ là KIA , là Cái Kia, Người Kia, là Khác, là Người ta.
TƯƠNG : là Đem, lấy (động từ). Cũng chữ nầy, nếu đọc là TƯỚNG (danh từ), thì có nghĩa là Tướng Sĩ Tượng.
TỈ là TỈ GIẢO 比 較 : Có nghĩa là So sánh.
NGHĨA CẢ CÂU :
(Nên) Biết mình biết người, (biết) lấy lòng mà so sánh với lòng. Trong Binh Pháp Tôn Tử có câu: Biết người biết ta thì trăm trận trăm thắng. (Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng). Ví dụ: So sánh hành động của hai người cùng một sự việc khó phân biệt thì ta có thể dùng câu: Tương tâm tỉ tâm, lấy lòng mà so sánh lòng thì chưa chắc gì ai đã tốt hơn ai!
酒 逢 知 己 飲 , 詩 向 會 人 吟 。
Tửu phùng tri kỷ ẩm, thi hướng hội nhân ngâm.
PHÙNG là Gặp gỡ.
TRI KỶ : là Hiểu mình, chỉ bạn thân, thông hiểu ý nhau.
HỘI : Ở đây có nghĩa là HIỂU, BIẾT, chớ không phải là Hội họp. HỘI NHÂN: là Người Hiểu biết, thông thạo về việc gì đó.
NGHĨA CẢ CÂU :
Rượu gặp người tri kỷ mới uống, chỉ nhậu với bạn thân mà thôi). (cũng như) Thơ chỉ ngâm cho những người hiểu biết về thơ nghe (mà thôi). Ngâm không đúng đối tượng thì như nước đổ lá khoai, không khéo họ còn cười mình vớ vẩn nữa là khác.
相 識 滿 天 下 , 知 己 能 幾 人 。
Tương thức mãn thiên hạ, tri kỷ năng kỷ nhân.
TƯƠNG THỨC : là Quen biết nhau.
MÃN : là Đầy, ở đây có nghĩa là Khắp.
THIÊN HẠ : là Dưới vòm trời, có nghĩa là Trên đời nầy.
NĂNG : là Được, ở đây có nghĩa là Có Thể ( có được ).
Kỷ 幾 : là Mấy, là Bao nhiêu.
NGHĨA CẢ CÂU :
(Dù cho) có quen biết hết người ở trên đời nầy, thì... bạn tri kỷ, thân thiết có được mấy người đâu. Có người suốt đời không có lấy một người tri kỷ. Chỉ bạn thân thiết thực sự ở trên đời rất hiếm.
相 逢 好 似 初 相 識 , 到 老 終 無 怨 恨 心 。
Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo lão chung vô oán hận tâm.
TƯƠNG PHÙNG : là Gặp gỡ nhau.
HẢO : là Tốt , chữ nầy được ghép bởi 2 chữ NỮ 女 là Con Gái và TỬ 子 là Con Trai. Nhà có con Trai con Gái là điều tốt, hay nói cho đúng là: Sự kết hợp giữa NAM và NỮ là điều tốt lành, nên chữ HẢO có nghĩa là TỐT là vì vậy.
SƠ : là Ban đầu, là Bắt đầu. Sơ Học: là lớp mới bắt đầu học. "Nhân Chi Sơ tay rờ cơm nguội" là chữ SƠ nầy. Đầu tháng Sơ tam Sơ Tứ: Là Mùng 3 mùng 4, cũng là SƠ nầy.
CHUNG : là Hết, là Kết cuộc, là Chết.
NGHĨA CẢ CÂU :
Gặp lại nhau mà còn tốt được với nhau như lúc ban đầu mới quen biết, thì tới già tới chết cũng không có oán hận gì nữa cả! Thường thì con người ta hay tốt với nhau trong buổi ban đầu gặp gỡ, rồi... quen lâu đâm ra nhàm chán, hời hợt... thậm chí còn "thấy mà ghét" nhau nữa là đằng khác.
(Còn tiếp)
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét