Kỷ Niệm Thầy Trò
Phần II: Thời
Trung Học
Năm tôi đậu Tiểu
học, Quảng Trị mới mở Trung học Tư Thục gồm ba lớp : đệ thất, đệ lục, đệ ngũ
(lớp sáu, bảy, tám bây giờ). Sau trường này trở thành Trung Học Nguyễn Hoàng
(trường công). Ba Mạ tôi cho tôi vào Huế học tiếp. Ý Ba định xin cho tôi vào
học ở một trường Tư thục Thiên Chúa Giáo là trường Providence (Thiên Hựu), giảng dạy toàn tiếng
Pháp giống như Pellerin (Bình Linh). Nhưng tôi cũng nạp đơn để thi cầu may vào
trường Khải Định (Quốc học). Lúc này lính Tây đang chiếm ở đó. Nên trường Nữ
Đồng Khánh được chia làm hai: một nửa cho Đồng Khánh từ đệ thất đến đệ tứ, một
nửa cho Khải Định “lớn”, từ đệ tam đến đệ nhất (lớp mười đến lớp mười hai), nam
nữ học chung. Còn Khải Định “nhỏ” (đệ thất đến đệ tứ), học nơi khác và sau
chuyển thành Trung Học Nguyễn Tri Phương.
Tôi thi ở Khải
Đinh “nhỏ”, thí sinh 2000 mà chỉ tuyển 270 cho 6 lớp. Bài vở tôi làm được nhưng
cứ nghĩ khó mà đậu! Ai ngờ tôi được trúng tuyển vào đệ thất trường Khải Định
năm đó. Thầy Ưng Đồng dạy môn Quốc văn. Tôi trọ học gần nhà Thầy (đường Chương
Đức, Cầu Đất, Huế). Mỗi lần Thầy bệnh hay bận việc phải nghỉ dạy, Thầy đều nhờ
tôi đưa đơn qua trường xin phép. Trái lại, khi tôi bị bệnh không đi học được,
tôi lại nhờ Thầy giúp chuyển đơn. Bây giờ nghĩ lại tôi tự thấy không ổn! Tôi tự
trách lúc đó mình lại làm một việc vô phép như vậy?
Linh mục Nguyễn
Văn Thích dạy lớp tôi tiếng Pháp nên tôi được học với Cha nhiều bài hát tiếng
Pháp. Khi qua Viện Hán Học, Cha lại dạy Hán văn cho khóa tôi liên tiếp mấy niên
học. Cha cũng dạy cho Sinh Viên nhiều bài hát do Cha sáng tác. Đặc biệt Cha
viết chữ Hán rất đẹp, đúng là “chữ rồng bay phượng múa!”. Cứ Tết đến, Cha viết
cho Sinh viên những câu đối chữ Hán. Về âm nhạc, bài hát “Cái nhà là nhà của
ta..” mà tôi thuộc lòng từ những năm tiểu học, không ngờ là do Cha Thích viết.
Anh Lê Ngọc Bích, sinh viên Viện Hán học khóa 1 (đã mất) đã bỏ công sưu tầm và
in được một tuyển tập Thơ,Văn, Nhạc, Họa…của Cha.
Thầy Hồ Đình Chữ
tức nhà thơ Bằng Trình dạy Toán. Thầy là giáo sư sang nhất trong các thầy trẻ ở
Khải Định “nhỏ”. Quần áo luôn láng lẩy, giày đánh bóng, Thầy hay lái xe hơi đến
dạy. Thời đó có xe hơi là thuộc lớp giàu. Vợ Thầy là con chủ hiệu buôn bán lớn
gần rạp chiếu bóng Tân Tân, Trần Hưng Đạo. Thầy viết chữ đẹp và bay bướm. Tôi
vốn dốt môn số học. Cuối năm vị thứ môn Toán của tôi là 43/45 và Thầy Chữ đã
phê vào học bạ “Kém, phải cố gắng nhiều”. Nhờ các môn khác kéo lại, tôi vẫn
được lên lớp. Hôm thầy ra Toán làm tại lớp, tôi cóp-pi đứa bên cạnh. Nó che tay
không cho. Tức mình, tôi nói: ”Lên đệ lục, học hình học, chắc gì mi đã hơn
tau?”. Hè đó, tôi quyết tâm học toán. Tôi mua sách Hình học, Đại số có bài giải
bằng tiếng Pháp về luyện thêm. Thời đó sách toán tiếng Việt rất hiếm. Ngay giáo
khoa Toán cũng chỉ có từ đệ thất đến đện tứ của Đinh Quy, Bùi Tấn, Lê Nguyên
Diệm. Qua đệ lục cũng Thầy Chữ dạy Toán nên thầy rất ngạc nhiên khi những bài
tập toán của tôi thường được điểm 10 dành vị thứ cuối năm 6/45. Sau này ra dạy,
có lần đi chấm thi tôi gặp Thầy Chữ cùng một trung tâm, tôi nhắc kỷ niệm học
toán với Thầy, Thầy cười thích thú! Trong khi dạy Trung học, Thầy vẫn ghi danh
học Đại học Văn khoa Huế, Thầy đậu Đại học, Cao học rồi học tiếp nữa…Trước
1975, Thầy là giáo sư Đại Học Huế. Tôi nhớ, sau 1990, trong một buổi phỏng vấn
Thầy về Văn học của Đài BBC, người ta gọi Thầy là Tiến sĩ Hồ Đình Chữ. Thầy
hiện đang sinh sống ở Úc.
Còn dạy Anh văn
lớp đệ lục của tôi là thầy Cao Cự Phúc. Thầy ở vùng kháng chiến về, học lại
trường Khải Định “lớn”, đậu Tú Tài 2 Ban C (Ban Văn chương, Sinh ngữ) rồi xin
vào dạy Khải Định “nhỏ”. Thầy bắt học trò gọi Thầy bằng “Anh”.
Anh Phúc là
người Quảng Trị với tôi, con Thầy Bàn, bạn với Ba (mà tôi đã nhắc ở trên). Nhà
Anh ở sau nhà tôi, cách mấy căn. Môn Anh văn tôi học khá nên Anh rất mến tôi.
Tôi được Anh đề cử đi thi “Concour général” cho khối đệ lục. Thỉnh thoảng, trên
tạp chí Đời Mới – một tờ báo uy tín thời bấy giờ- tôi thấy có bài viết của Anh.
Anh chính là Nhạc sĩ Hoàng Nguyên, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như “Ai
lên xứ hoa đào”, “Đàn ơi xa rồi”, “Tà áo tím” v..v…Sau Hiệp định Genève một
nhóm trí thức ở Huế tranh đấu cho hòa bình thế giới. Nhóm này bị công an bắt,
trong đó có Anh Phúc và nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, dạy nhạc trường tôi. Hàng ngày,
ngoài giờ học, học sinh chúng tôi thường kéo đến trước cổng Ty Công An - Cảnh
Sát, gần trường tôi để nghe ngóng tin tức. Trong Ty, các thầy và một số người
khác ngồi trước hàng hiên nhìn ra chúng tôi. Tuy lúc đó, họ không hành hạ hay
uy hiếp gì các thầy nhưng chúng tôi vẫn rất xót xa và thương các thầy của mình…
Một tuần sau, tất cả được thả về, Anh Phúc tiếp tục dạy Anh văn lớp tôi cho đến
hết niên khóa. Rồi nghe nói “người ta” không cho Anh ở Huế, Anh lên Đà Lạt dạy
trường Bồ Đề. Một mối tình lãng mạn ở xứ “ngàn hoa” đã cho chúng ta ba tác phẩm
tuyệt vời của Hoàng Nguyên :”Ai lên xứ hoa đào”, “Bài thơ hoa đào” và “Đường
nào lên Thiên Thai”. Một lần bố ráp, ở phòng trọ của Anh, cảnh sát không biết
tìm được những gì, nhưng nghe nói trong đó có bài Quốc ca Miền Bắc (Tiến quân
ca), của người nhạc sĩ đa tài mà Anh rất mến mộ: Văn Cao. Lần đó Anh bị bắt rồi
đưa ra Côn Đảo. Theo tôi, nhạc sĩ Hoàng Nguyên chắc phải có hoạt động gì đó. Về
âm nhạc, nhiều tác phẩm có xu hướng dân ca Huế như “Anh đi mai về”, “Tiếng hai
đêm”… của Anh, lời ca rõ ràng có ẩn ý nhắn nhủ, kêu gọi hòa bình, phản chiến,
hướng về tình tự dân tộc…
Năm 1958, Anh
được thả về. Hay tin, tôi cùng người em rể, đều là học trò cũ của Anh, đương ở
Sài Gòn, đến thăm Anh tại nhà nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, đường Bùi thị Xuân. Nhà
Hoàng Thi Thơ đang bận tiếp khách, thế là thầy trò chúng tôi đứng ngoài đường
nói chuyện với nhau. Anh lại học Đại học Sư phạm Anh văn, đi dạy một thời gian
nữa thì bị động viên học Sĩ quan Thủ Đức. Ra trường nhờ có nhạc sĩ Anh Việt
(đại tá Trần Văn Trọng, cục trưởng Cục Quân cụ) đưa anh vào ngành Quân cụ đồng
thời giúp nhạc sĩ Anh Việt trong Hội Nhạc sĩ Quân đội. Anh mất bất ngờ trong
một tai nạn xe. Cấp bậc cuối cùng là đại úy. Tất cả tác phẩm của Hoàng Nguyên
đều có gía trị cả ca từ lẫn âm nhạc. Anh đã viết nhạc bằng cả tâm hồn và trái
tim nhân ái. Nếu anh còn sống, biết đâu kho tàng âm nhạc Việt Nam lại không có thêm nhiều ca khúc
tuyệt vời? Thật:
“Thương cho một kiếp tài hoa
Mà đời lắm nỗi phong ba dập vùi…”
(TVD)
Thầy Nguyễn Hữu
Ba dạy tôi môn nhạc hai năm đệ thất, đệ lục. Thầy là bạn của Ba tôi. Trong
những năm kháng chiến 1, Thầy có về quê ở với gia đình tôi một thời gian. Vì
hoàn cảnh, Thầy không học nhiều nhưng đa tài. Thầy chuyên khảo cứu dân ca Việt Nam ,
cổ nhạc nhất là miền Trung. Ngón đàn cổ của Thầy thì ít ai sánh kịp. Nhất là
đàn nhị mà khi kéo Violon, cũng rất véo von. Thầy thành lập ở nhà riêng, gần
cửa Thượng Tứ một “Tỳ Bà Viện”, trong đó gần như một bảo tàng nho nhỏ về các
nhạc khí dân tộc. Thầy còn làm thơ Đường, vẽ tranh thủy mặc. Thầy có vẽ tặng Ba
tôi hai bức, lồng kiếng đóng khung rất đẹp. Thầy đã từng làm giám đốc Nhạc viện
Huế và dạy nhạc tại Nhạc viện Sài gòn. Nhiều nghệ nhân nổi tiếng hiện nay là
môn sinh của thầy. Khoảng 1982, tôi và một người cháu theo chân Ba tôi đến nhà
Thầy ở Phú Nhuận. Thầy đã đàn cho chúng tôi nghe và tặng tôi một tập sách nhỏ
khảo cứu cổ nhạc Việt Nam. Thầy kể một kỷ niệm vui : “Hồi ở Quảng Trị, bọn Tây
đi lùng đến nhà Thầy, một thằng hung hăng kéo cái đàn trên vách xuống đất, rồi
“đàn bằng gót giày”. Vừa nói Thầy vừa làm điệu bộ, pha trò rất tự nhiên, làm
cho chúng tôi cười ngặt nghẽo…
Năm đệ lục, tôi
học Quốc văn với Thầy Hà Thúc Lãng. Thầy còn giữ nhiệm vụ kiểm duyệt sách báo ở
Ty Thông Tin. Một hôm Thầy Nguyễn Hữu Ba kéo Violon cho cả lớp nghe một ca khúc
của Hoàng Nguyên rất hay, Thầy viết lời ca lên bảng rồi gạch dưới nhiều ca từ,
lưu ý chúng tôi đó là những ca từ bị kiểm duyệt. Và Thầy nói xa nói gần để cho
học trò biết người kiểm duyệt là Thầy Hà Thúc Lãng. Tôi không còn nhớ tựa đề
bài hát, chỉ nhớ mang máng : “Người về Miền Bắc nhớ thương người ở Miền Nam
(…). Đây dốc ngược Câu Nhi đây bến đò Ba Lòng. Tiếng ai hò trên sông…”. Bài này về sau Hoàng Nguyên đặt lại lời ca và
đã xuất bản. Thầy Hà Thúc Lãng có hai người con cũng là thầy của tôi. Thầy Hà
Như Hy dạy Công dân đệ ngũ sau là Hiệu Trưởng Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng
Ngãi và Thầy Hà Như Chi dạy Văn lớp đệ nhị lúc tôi ở Sài gòn, là tác giả hai
tập giảng văn biên soạn rất công phu : “Việt Nam Thi Văn Giảng Luận”, Thầy cũng
là dân biểu Quốc hội có uy quyền thời Ngô Đình Diệm.
Thầy Võ Long Tê
dạy tôi môn Việt văn đệ ngũ. Một buổi chiều, mới vào lớp Thầy đã hỏi : “Em nào
không soạn đoạn Chinh Phụ Ngâm mà thầy đã cho chép ở trên bảng?”. Ở nhà, tôi cứ
nghĩ mới bắt đầu học Chinh Phụ Ngâm, chắc Thầy sẽ giảng ở lớp nên không soạn.
Tôi thản nhiên đứng dậy, tiếp theo bảy tám đứa khác cũng đứng lên trong đó có
hai bạn Nguyễn Kim Hoàn (ở lại lớp) và Tôn Thất Hoàng (trường tư mới thi vào).
Cả hai đều học kém lại ngang tàng, nghịch ngợm, chơi thân với nhau. Thầy Tê cho
mỗi đứa không soạn bài một con zéro vào sổ điểm. Chiều lại, cuốn sổ điểm tự
nhiên biến mất. Năm đó, Khải Đinh “nhỏ” đã đổi tên là Nguyễn Tri Phương, Thầy
Đinh Quy làm hiệu trưởng. Thầy nổi tiếng nghiêm khắc, học trò rất sợ. Sáng hôm
sau, thầy cho gọi riêng từng đứa bị điểm “không” vào phòng hiệu trưởng, trong
đó có tôi. Thầy vừa như hăm dọa lại vừa dỗ dành. Trong lòng, tôi đang nghi hai
bạn tên Hoàn và Hoàng là thủ phạm vụ này nhưng không dám nói ra. Về sau vụ việc
qua ngày tháng, không tìm ra ai, cuối cùng cũng êm xuôi cả. Thầy Võ Long Tê có
những công trình văn học giá trị…
Trường có sáu
lớp đệ ngũ nên môn Sử Địa chia cho hai thầy là Ưng Đồng và Cao Hữu Triêm cùng
dạy, mỗi thầy ba lớp. Thầy Triêm dạy lớp tôi, Thầy nổi tiếng ở Huế về môn học
này. Thi Trung học nếu đậu thi viết (écrit) xong, khi qua thi vấn đáp (oral) Sử
Địa thế nào cũng gặp Thầy Triêm. Ở Nguyễn Tri Phương, hai kỳ thi lục cá nguyệt,
sáu lớp chúng tôi bị xáo trộn ngồi theo vần a,b,c và làm cùng đề thi. Hôm thi
Sử Địa, trong số các câu hỏi có một câu Thầy Triêm chưa dạy mà Thầy Đồng thì
dạy rồi nên cậu ngồi kế tôi, học Thầy Đồng, viết ro ro, còn tôi đành cắn bút.
Tôi nghĩ nếu xem cậu đó chép vào thì Thầy Triêm sẽ biết là tôi “cóp-pi”. Do đó,
để chứng tỏ sự ngay thật, cũng như lý do không làm bài được, tôi ghi vào giấy
thi: “Bài này Thầy Triêm chưa dạy”. Sau kỳ thi, Thầy Triêm vào hai lớp B1 và B3
nói với học trò rằng: “Bên B2 có thằng Trần Văn Dật dám cả gan viết vào bài thi
nói thầy Triêm chưa dạy…”. Các bạn hai lớp này thuật lại với tôi. Tuy nhiên khi
vào lớp tôi, Thầy vẫn dạy bình thường không đả động gì đến chuyện đó cả mà rồi
tôi cũng không biết Thầy cho mình mấy điểm vì Thầy không phát bài cũng chẳng
đọc điểm. Nhưng tôi bắt đầu lo sợ, sợ gặp Thầy trong kỳ thi vấn đáp Sử Địa năm
sau. Bấy giờ tôi đã võ vẽ làm được một số bài thơ, có cả thơ Xuân. Nhân dịp
Tết, tôi chép thơ tôi vào giấy đẹp, đóng thành tập nhỏ nhờ hai thằng bạn thân
trình bày thật trang nhả, có hoa lá cành, mua thêm thiệp Xuân viết lời chúc Tết
Thầy. Đề tên cả ba đứa rồi mang đến nhà tặng Thầy. Thầy vui vẻ đón nhận và
chuyện trò với chúng tôi rất tự nhiên. Từ đó, lòng tôi nhẹ hẳn. Lên đệ tứ, vẫn
Thầy Triêm dạy Sử Địa nhưng hôm thi vấn đáp, tôi lại gặp Thầy Lê Hữu Mục, giáo
sư Quốc Học sau dạy Đại học Văn khoa Huế. Thầy Mục bỏ các câu hỏi vào trong
hộp, tôi bốc trúng bài “Đồng bằng Nam Việt”, tôi đọc ngay, còn một đoạn ngắn ở
sau tôi quên bén nên đứng im. Thầy Mục bảo tôi đọc tiếp, tôi láu cá trả lời: “Thưa
thầy, Thầy Triêm chỉ dạy chừng đó”. Thầy cũng làm thinh, cho điểm. Ở Quốc Học,
Thầy Mục cũng có dạy tôi một thời gian ngắn. Thầy là tác giả hai cuốn luận đề
về “Nửa chừng Xuân” của Khái Hưng, “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh và một số công
trình dịch thuật từ Hán văn qua Việt văn. Sau 1975, thầy định cư tại Canada .
Hôm thi môn Vạn
vật (Sinh vật) giáo sư phụ trách là một cô giáo trẻ, ở Cô, toát ra một nét đẹp
dịu hiền. Cô dạy ở Đồng Khánh, tôi không biết tên. Cô gọi tôi lên, với vẻ mặt
buồn bã, tôi thưa với Cô: “Thưa Cô, em chỉ thuộc bài “Mắt” ”. Cô nhỏ nhẹ bảo
tôi về lại bàn ngồi soạn trước. Tôi mừng hú vía. Không hiểu sao Vạn vật là môn
học bài mà tôi đần một cách lạ lùng! Cứ học thuộc đó rồi lại quên ngay. May còn
nhớ được bài “Mắt”. Hai môn dốt khác của tôi là Lý và Hóa. Từ đệ thất đến đệ
ngũ, tôi chẳng hiểu gì về hai môn này nên không làm trúng được một bài toán lý
hóa nào. Mãi đến năm đệ tứ, năm quyết định cho tương lai, tôi mới biết cân bằng
phản ứng để làm được toán hóa và hiểu thêm về điện, quang, để làm bài tập lý.
Nói chung, với tôi suốt cả đời, cái gì liên quan đến máy móc, khoa học, tôi
không thích lắm, nên làm biếng tìm hiểu. Cũng vì cái tánh đó, mà đến bây giờ,
thời đại vi tính, người ta toàn viết trên máy để sửa chữa thêm bớt dễ dàng thì
tôi vẫn ngồi viết tay, sau mới nhờ đánh
lại để sửa hoàn chỉnh.
Sau hiệp định
Genève, Tây rút về. Khải Định “lớn” từ “Đồng Khánh” trở lại vị trí cũ, rồi năm
1956 được đổi tên thành “Quốc Học Ngô Đình Diệm” nhưng tên này không hiểu vì
sao chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Có lẽ thấy thêm ba chữ “Ngô Đình Diệm sau
chữ “Quốc học” có vẻ không ổn lắm, lại thôi!
(Còn tiếp)
Trần Văn Dật
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét