Kỷ Niệm Thầy Trò:
Phần III: Thời Viện Hán
Học
***
(Riêng tặng Lý Văn Nghiên và Nguyễn Bá Yên)
Mới đây tôi ở
Vĩnh Long lên thành phố Hồ Chí Minh dự đám giỗ Ba tôi được tổ chức hàng năm tại
nhà người anh cả. Nhân một buổi chiều đi bộ (tập thể dục) từ nhà con gái tôi ở
đường Hồ Biểu Chánh Phú Nhuận, tôi ra Nguyễn Văn Trỗi rồi bẻ xuống Huỳnh Văn
Bánh (trước đây là Nguyễn Huỳnh Đức) vì tôi muốn đi ngang qua số nhà 63 Huỳnh
Văn Bánh, nơi Ba tôi đã mất vào năm 1992. Căn nhà này bây giờ thuộc chủ khác.
Bởi Ba Mạ tôi cho đứa gái út ngôi nhà và sau một thời gian ở, em tôi đã bán để
mua một nơi khác xây cất rộng rãi hơn. Tôi vừa đi vừa nghĩ đến Ba tôi rồi rẽ
phải qua đường Phan đình Phùng và vào Nhà sách Phú Nhuận. Tôi đi thẳng tới khu
chứa sách văn học và sử học. Sau khi để mắt lướt qua một lượt những nhan đề
sách và tác giả, tôi sung sướng cầm lên cuốn “Huyền Thoại Về Danh Lam Xứ Huế”
của Thầy Bửu Kế. Cũng như năm 2004, vào một nhà sách thấy “Từ Điển Hán Việt Từ
Nguyên” đồ sộ của Thầy Bửu Kế với giá rất cao (theo với lúc đó), tôi vẫn mua
về. Tiếc là cuốn Từ điển này ra đời khi Thầy đã mất, do đó, người biên tập,
người sửa “mô-rát” (morasse) có lẽ không cẩn thận lắm, nên đã viết sai và để
sót rất nhiều từ, làm giảm giá trị tác phẩm và làm mất uy tín của Thầy không
ít. Bởi trước năm 1975, những sách và dịch phẩm của Thầy đã in đều có giá trị
cao về mặt văn học và Thầy đã được nhiều giải thưởng. Trong đó “Tầm Nguyên Từ
Điển” đã giúp cho tôi rất nhiều khi tôi viết hai cuốn “Từ Điển Vần Bằng Tiếng Việt”
và “Từ Điển Vần Trắc Tiếng Việt”.
Tại Viện Hán
Học, tôi được học với Thầy Bửu Kế về môn Văn minh học triều Nguyễn ở năm thứ
năm, trong khi có lớp học Anh văn với
Thầy từ năm thứ nhất. Thỉnh thoảng vào giờ ra chơi, tôi đứng trò chuyện với
Thầy ở hành lang và đã có lần, tôi đã yêu cầu Thầy sớm cho xuất bản những tác
phẩm về Văn minh học của Thầy. Nhưng hình như mãi sau những năm 1990, “thời mở
cửa”, những tác phẩm đó mới được con Thầy cho in khi Thầy đã mất.
Năm 1965, ra
trường, tôi được bổ dạy ở Nữ Trung học Quy Nhơn. Một hôm, nhân đọc tờ tạp chí
có đăng bài của Thầy Bửu Kế nói về những lỗi trong “Việt Nam Tân Từ Điển” của
Thanh Nghị và Thầy có ý định viết một Từ Điển Tiếng Việt, tôi nảy ra ý thu gom
các từ địa phương – những vùng miền tôi đã ở, đã qua - viết theo mẫu tự
A,B,C…có giải nghĩa, chẳng hạn như “Nẫu: người ta” (Nẫu nói : người ta nói). Xứ
Nẫu: chỉ vùng Bình định, Phú Yên. “Nậy: lớn, Côi: trên (Côi nớ: trên ấy)
v..v…Rồi khi nào khá nhiều từ, tôi sẽ gởi ra cho Thầy để Thầy bổ sung vào Từ
Điển Tiếng Việt.
Bấy giờ Thầy
đang làm Quản thủ Thư viện Huế. Tôi đã gom và viết được một quyển vở 100 trang.
Nhưng tiếp theo là chuyện lính tráng, chuyện vợ con và nhất là do biến cố 1975,
ý nguyện của tôi đối với Thầy không thực hiện được, rồi di chuyển, “chạy loạn”,
thay nhà, đổi cửa…nên tác phẩm con con đó cũng bay đâu mất!
Hôm nay ngồi đọc
“Huyền Thoại Về Danh Lam Xứ Huế” của Thầy Bửu Kế, không những tôi nghĩ về Thầy
mà nghĩ đến những Thầy khác ở Viện Hán Học rồi tự nhiên đồng loạt tưởng nhớ tới
quý Thầy xa xưa, thân thương mang dấu kỷ niệm…
Hồi tôi học Đệ nhị cấp ở Quốc học, Thầy
Cao Xuân Duẩn, giáo sư Anh văn, dạy trong trong quyển “L’Anglais Vivant
Troisième bleu”. Bài đầu tiên là “Civil War” (Nội chiến). Thầy uốn lưỡi đọc hai
chữ Civil War trông có vẻ đau khổ nên bọn học trò tinh nghịch chúng tôi cứ thấy
thầy là đọc “Civil War”. Thầy Cao Hữu Hoành, em ruột Thầy Triêm dạy Pháp văn.
Thầy thích nói về Triết. Chính câu chuyện Le Cid mà Thầy dạy đã ảnh hưởng đến
tôi để tạo nên một mối tình khá trớ trêu khi học ở Viện Hán Học. Thầy Hương thì
dạy tôi Quốc văn. Học về Chinh Phụ ngâm, Kiều, Cung Oán Ngâm khúc…Thầy hiếm khi
mang theo sách. Cứ vào lớp, Thầy đọc tuần tự từng câu thơ rồi bình giảng. Lần sau
lại đọc câu tiếp. Chúng tôi thán phục trí nhớ siêu đẳng của Thầy. Thầy có một
cửa hiệu lớn bán đồ máy móc gần nhà sách Ưng Hạ đường Trần Hưng Đạo. Thầy
thường tự lái xe đến dạy. Thầy sống trong một villa rất đẹp trong khu đất rộng.
Thầy Duẩn, Thầy Hoành về sau đều dạy ở Viện Hán Học. Lúc tôi học năm thứ tư ở
đó thì Thầy Hương về làm Giám học của Viện thay Thầy Phan Văn Dật và kiêm nhiệm
môn Văn lớp tôi thế thầy Nguyễn Văn Dương chuyển qua trường khác. Trước đó độ
một tháng, Thầy Dương ra đề luận cho sinh viên nghiên cứu để viết về Kim Trọng,
Thúc Sinh và Từ Hải trong Truyện Kiều. Tôi tìm đọc nhiều sách liên quan đến
Truyện Kiều rồi viết ra trên những tờ giấy lớn đóng thành tập. Nhờ người bạn
cùng khóa, Nguyễn Bá Yên trình bày, viết các tựa đề chữ to rất đẹp. Nhưng Thầy
Dương ra đi thình lình, tôi đem đến nhờ Thầy Hương xem. Không ngờ có nhiều đoạn
Thầy khen và phê một câu đầy ấn tượng làm tôi quá vui: “Một sinh viên có tương
lai!”. Thầy còn bắt tôi thuyết trình trước lớp bài viết của mình. Cuối năm ấy,
tôi đứng Nhất, được Huy chương đồng về học lực của Viện Đại Học Huế. Thầy Hương
phê trong học bạ tôi “Học hạnh kiêm ưu”. Nhưng thưa Thầy, Thầy tiên đoán về con
sai rồi: Sau “Giải phóng”, con quá lao đao! Người ta đày đọa con đủ cách!...
Cũng niên khóa
này, con gái Thầy Hương học năm thứ nhất theo qui chế mới. Cô ta khá xinh xắn,
dễ thương. Thầy quen Hội Việt Mỹ nên xin cho Viện Hán Học tổ chức một đêm văn
nghệ tại đó, cô con gái của Thầy cùng ở trong ban hợp ca với tôi. Chúng tôi
quen nhau qua những buổi tập hát, nhưng chỉ nhìn nhau mà chưa nói với nhau lời
nào. Tôi có linh tính, cô đã có cảm tình với tôi. Hôm trình diễn, ban hợp ca
mặc đồng phục có gắn “nơ” trước ngực. Tôi khá xúc động và ngạc nhiên khi các
bạn gái của cô đứng đó, mà cô lại tìm đến, nhờ tôi cài nơ lên ngực cô. Tối đó,
tôi hân hạnh đèo cô về nhà trên chiếc vélo-solex cà tàng của tôi. Vì mới mẻ
quá, tôi chưa dám thổ lộ gì, chỉ là vu vơ với nhau. Về sau, thêm vào đó vì một
cô bạn trong nhóm ca hát, có ý ganh tị nên chúng tôi không còn gắn bó nhiều.
Thậm chí cuối hè, tôi bị tai nạn xe nằm ở bệnh viện, mọi người từ bạn cùng
khóa, khác khóa, các thầy, có Thầy Hương (ba của cô) đến thăm hỏi, nhưng cô vẫn
cố lánh mặt, không đến. Sau khi Viện Hán Học giải thể, cô qua học Đại học Sư
phạm Anh văn. Một kỷ niệm nho nhỏ nhưng cũng nhớ hoài!
Ở Viện Hán Học,
Thầy Nguyễn Hồng Giao dạy Tứ Thư. Thầy khoan hòa, điềm đạm. Ăn nói chuẩn mục.
Năm đầu Thầy dạy Luận ngữ. Thầy viết bài lên bảng cho chúng tôi chép vào vở,
xong Thầy giảng, chúng tôi lại ghi nhớ. Một hôm ra nhà sách gặp cuốn Luận Ngữ
của Đoàn Trung Còn chú giải, tôi mua về, thay vở mới, chép lại các bài mà Thầy
Hồng Giao đã dạy rồi ghi theo lời giảng của Đoàn Trung Còn. Thầy Giao gọi tôi
lên hỏi bài. Thấy vở tôi chỉ chép các lời giải của Đoàn Trung Còn mà không thấy
lời nào của Thầy, Thầy có vẻ không bằng lòng. Nhưng lần nọ, Thầy ra đề tài
nghiên cứu: “Người quân tử trong Nho giáo”, thời gian làm một tháng. Tôi sưu
tầm tài liệu về người quân tử… và đến nhà Thầy Dật, nhờ kho sách của Thầy, tìm
đọc, ghi chép tại chỗ rồi về nhà hoàn thành bài nghiên cứu đúng kỳ hạn. Khi
chấm bài, Thầy Hồng Giao đã phê: ”Một điểm son!” 18/20. Năm thứ ba học về Mạnh
Tử. Thầy ra đề: “Mạnh Tử, nhà cách mạng”, Thầy lại cho 18,5/20 rồi cũng phê: “Một điểm
son!”. Nhờ những lời khen của quí thầy đã khích lệ tôi rất nhiều trong việc học
tập. Khi không còn Viện Hán Học, Thầy Giao qua dạy Trung học. Thầy cùng Thầy Võ
Như Nguyện đã soạn quyển “Hán Văn tự học”. Sau này nghe nói nhà xuất bản Đà
Nẵng đã in và tái bản nhiều lần.
Cụ Ngô Đình
Nhuận thì dạy Hán văn lớp tôi năm thứ ba. Năm ấy tôi làm lớp phó phải điểm danh
các bạn rồi báo cho mỗi thầy trước giờ dạy. Chiều đó, Nguyễn Văn Đài, con thầy
Nguyễn Văn Kháng (dạy tôi Pháp văn) không biết “bận việc” đi chơi hay có giờ
học bên Văn Khoa mới dặn tôi: ”Tau nghỉ, mi đừng ghi tau vắng nghe!”. Cụ Nhuận
bước vào, cả lớp đứng dậy, tôi báo:”Thưa Cụ, cả lớp đủ”. Cụ chưa cho ngồi xuống
mà lại đếm (lớp B tôi chưa được 30 người nên qua năm thứ tư, hai lớp A,B nhập
làm một được 56 sinh viên). Tim tôi đập thình thịch vì quá sợ. Cho lớp ngồi
xuống rồi Cụ mới la tôi. Tôi rất xấu hổ thế mà cũng bướng đứng dậy bào chữa: “Thưa
Cụ, con không bao giờ dám nói láo, khi nãy con đếm đủ mà!”. Sở dĩ tôi dám qua
mặt Cụ như vậy vì giờ Cụ, chưa lần nào Cụ hỏi sĩ số. Độ một tuần sau, Cụ bệnh
rồi mất. Nghe tin, sau giờ học, tôi và một số bạn khác chạy qua nhà Cụ liền,
lúc chưa khâm liệm. Cụ nằm đó, trên chiếc giường trong buồng. Không biết đã có
ai vuốt mắt cho Cụ chưa, hay vì bị ám ảnh, tôi thấy Cụ cứ nhìn tôi trừng trừng.
Tôi có cảm nghĩ Cụ vẫn giận tôi về hành vi không đẹp hôm đó đối với một người
thầy.
Những thầy cao
tuổi dạy ở Viện, chúng tôi đều gọi bằng “Cụ” ngay những giáo sư trẻ hay trung
niên, cũng gọi các thầy đó bằng “Cụ”. Như Cụ Bột, dạy Sử Trung Quốc , Cụ Ngại
dạy Hán Văn, Cụ Định dạy Đường thi v.v…
Một hôm tôi đưa
tập thơ của tôi nhờ Cụ Định xem. Phần lớn cụ phê bên cạnh “Được”!. Cũng có bài
Cụ sửa.Một bài khác có nội dung: Người con trai chưa có công danh sự nghiệp,
tương lai còn mờ mịt lại sống vất vưởng rày đây mai đó nên chàng khuyên người
yêu hãy quên mình đi. Đọc xong, Cụ phê: “Phụ tình chăng?”. Cụ tuy “cựu” nhưng lại rất
“tân” trong thơ phú, thích tự do hơn theo luật, chẳng hạn như mấy câu sau:
“Trăng
Nước
Ngọc
Vàng
Tồn tại
Tiêu tan
Một vẻ khuynh quốc
Một ánh hào quang…”
Thầy Võ Như
Nguyện, Chủ sự văn phòng, không dạy, trực tiếp quản lý Viện Hán Học. Thầy trông
rất oai vệ, từng làm Tỉnh trưởng và phụ trách an ninh cả Miền Trung. Thầy đi
làm bằng xe hơi có tài xế do chính quyền phái qua. Một lần tôi cùng các bạn
Sinh viên đến gặp trực tiếp Cha Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại học kiêm
Giám Đốc Viện Hán Học, đưa đơn xin Cha cho Thầy Phan Văn Dật, nguyên giám học Viện
Hán Học, đã bị “đẩy” xuống làm dịch thuật ở Thư viện Huế, được dạy lại. Đơn trả
về Viện Hán Học và Thầy Nguyện gọi tôi xuống văn phòng bảo là tôi đã làm một
việc thiếu nguyên tắc hành chánh, vượt hệ thống. Thầy đã la tôi. Dù vậy, lúc
nào tôi cũng kính mến Thầy Nguyện. Rồi chính sự rầy la đó mà tôi tìm đến “người
cháu gái của thầy” đang học ở Hán Học Viện. Tôi thử áp dụng câu chuyện Le Cid
mà Thầy Cao Hữu Hoành đã dạy tôi. Ai dè cuộc tình đến quá nhanh chóng và mỗi
ngày mỗi khắng khít giữa những bất trắc đang bủa vây bên ngoài…Và lúc tôi đang
ở xa, nghe đâu chính Thầy Nguyện là người đứng ra xe kết cho hai đứa chúng tôi,
nhưng có lẽ do không có “duyên” nên rồi chỉ còn “nợ” nhau mãi mãi…Thầy và gia
đình hiện định cư ở Pháp. Năm nay (2014) Thầy đã gần 100 tuổi!
Thầy Võ Như
Nguyện và Thầy Phan Văn Dật là những đầu tàu của Viện Hán Học khi mới thành
lập. Thời gian học ở đó, tôi hay lui tới nhà Thầy Dật, vì nhà thầy là một “thư
viện” nho nhỏ, đầy sách quí hiếm. Thầy là thi sĩ thời Tiền chiến, có tên trong
Thi Nhân Việt Nam
của Hoài Thanh - Hoài Chân . Thầy cũng có viết tiểu thuyết và nhận được phần
thưởng của Tự Lực Văn Đoàn. Lúc đầu Thầy làm giám học. Ở lớp tôi, Thầy dạy Sử
Địa năm Nhất, và Quốc văn năm cuối khi Thầy trở lại Viện Hán Học. Một hôm, tôi
chép một số bài thơ của tôi tặng Thầy. Ý của tôi muốn nhờ thầy cho ý kiến. Tôi
làm thơ mà thiếu tự tin. Bài đầu trong tập thơ nhỏ đó là:
Xuân
với lòng tôi
Đã mấy Xuân đi Xuân lại về
Lòng tôi còn đắm
giữa sông mê…
Thuyền đời vẫn lướt
bên hờ hững
Và chuốc cho mình
những tái tê…
Người ta cười đón
mùa Xuân mới
Tha thướt xiêm y
sáng rực đường
Tất cả triều vui
đương ngóng đợi
Tôi tìm Xuân với ý buồn thương!
Ray rứt tháng ngày
cho số phận
Thiệt thòi, thất
vọng, vấn vương theo…
Xuân quang thêm gợi
niềm ân hận!
Định bến nơi nao
một cánh bèo!?
Tiếng pháo đêm Xuân
nổ chuyển trời
Cô phòng, làm xé
nát tim côi…
Hồn kinh như lạc
vào hư động
Tôi kéo chăn trùm
kín lấy tôi!
Tôi phải vì đâu khổ
thế này ?
Bao giờ mới hết nỗi
niềm tây?
Sầu miên chẳng thứ
đêm trừ tịch
U ám tâm tư phủ
tháng ngày…
Ngày sau tôi đến
nhà Thầy, thấy tập thơ của tôi đang ở trên bàn mà bài “Xuân với lòng tôi” có
mấy câu thầy gạch đỏ bên dưới. Tôi hồi hộp. Sợ đấy là những câu bị chê nhưng
không, thầy nói đó là những vần thơ, ý thơ hay, đạt! Tôi vui biết bao!
Thời gian ở Viện
Hán Học thỉnh thoảng Thầy Dật cho tôi sách văn học. Ra trường, đi dạy, tôi vẫn
liên lạc với Thầy và thư hồi âm nào của Thầy cũng kèm theo giới thiệu những tác
phẩm hay. Ở Huế, Thầy dạy khá nhiều trường (lúc Viện Hán Học không còn) như
Đồng Khánh, Cao Đẳng Mỹ Thuật, Đại học Văn Khoa…Sau 1975, tất cả đổi thay, tôi
mất liên lạc và chẳng biết Thầy ở nơi nào. Gia đình tôi từ Quy Nhơn vào Vĩnh
Long. Mãi đến năm 1983, tình cờ tôi nghe nói Thầy vẫn còn ở Huế, tôi tìm được
địa chỉ và từ đó, thầy trò lại thư từ qua lại. (Trong bài “Những tháng ngày khó
quên” đăng ở Đặc san 50 năm thành lập Viện Hán Học” tôi viết nhiều về Thầy Phan
Văn Dật).
Thầy Nguyễn Văn
Dương dạy lớp tôi hơn ba niên khóa. Thầy là một trong những giáo sư trẻ. Dạy
rất nhiều môn :Quốc Văn, Hán Văn, Triết học…Thầy chỉ cho sinh viên cách đọc
sách, ghi chép tài liệu và thường giới thiệu các sách hay. Thầy gửi những tác
phẩm văn học thầy hiện có mà chưa được xuất bản lại, vào Sài Gòn, thuê đánh
máy, in ronéo (bấy giờ chưa có photocopy) đóng thành tập rất đẹp, gửi về Huế.
Thời đó mà có những tập như “Thơ Thơ”, “Gửi Hương Cho Gió” của Xuân Diệu, “Dưới
Mắt Tôi” của Trương Chính…sinh viên chúng tôi mừng lắm. Thầy chịu khó học tập,
nghiên cứu, nên tuy còn trẻ mà đã có tác phẩm xuất bản. Đầu năm thứ tư, chúng tôi
học với Thầy hơn một tháng thì thầy đổi qua Quốc Học rồi Đại học Huế. Vừa dạy
vừa học, Thầy lấy xong Cao học rồi Tiến sĩ. Sau thầy xin vào Sài gòn dạy Hán
văn, tiếng Hoa, tiếng Nhật ở Đại học Sư Phạm. Thầy viết Từ điển tiếng Việt, Hán
Việt, Pháp Việt, Anh Việt…nghiên cứu Sử học và dịch thuật. Tất cả đều đã xuất
bản. Tôi vinh dự được Thầy tặng cho các tác phẩm chính của Thầy. Ở Vĩnh Long,
tôi giới thiệu và bán một số sách của Thầy viết. Một hôm vào bán cho trường Cao
Đẳng Sư Phạm, họ đòi hóa đơn đỏ, tôi không có, họ bắt tôi xác nhận là “Tác giả
bán”. Tôi phải ghi ẩu:”Tôi, Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương, Tác giả…” Ghi xong, bước
ra, thấy quá xấu hổ về sự mạo nhận danh Thầy. Sau này nghe kể lại, thầy trò
cùng cười…
* *
*
Trong cuộc đời
học sinh, thầy nào đã dạy mình, không nhiều thì ít, đều có những kỷ niệm riêng.
Bây giờ tôi đã trên tuổi “thất thập”, trí nhớ đã mỏi mòn nên chỉ ghi lại được
chút ít thôi.
Thầy Võ Như Nguyện
Thầy Võ Như Nguyện
Thầy Phan Văn Dật
Cha Nguyễn Văn Thích
Thầy Nguyễn Văn Dương
Thầy Nguyễn H Châu Phan
Kính thưa quý Thầy,
Khi con ngồi
viết những dòng hoài niệm này thì phần lớn quý thầy đã ra người thiên cổ! Nhưng
ở đâu, dù chỉ dạy cho con một chữ (nhất tự), nửa chữ (bán tự), quí thầy vẫn mãi
mãi là Thầy của con. Quí thầy không những truyền thụ cho con kiến thức mà còn
dạy cho con cách đối nhân xử thế. Và chính nhờ những điều này mà con đã đứng
vững giữa cuộc đời đầy sóng gió, cả về tinh thần lẫn vật chất…
Sài Gòn, 5.10.2014
Trần văn Dật
Tiếc Hận
1.-Em ơi gặp lại làm chi
Để vương sầu lệ chia ly cuối đời?
Mấy mươi
năm cuộc nổi trôi
Hằng mơ hằng ước nối lời xa xưa:
Cho tan
ray rứt dây dưa…
Những bao tiếc hận đẩy đưa sớm chiều…
Đêm về
quặn nỗi cô liêu
Trong từng giấc ngủ đìu hiu võ vàng…
Bây giờ ta
đứng bên Nàng
Vui mừng sao thấy bàng hoàng đớn đau:
Tình yêu
dậy sóng dạt dào…
Nhưng ôi đã mất… ta nào còn Em !?
2.-Ngày xưa sao quá dại khờ
Minh châu (1) trong túi ơ thờ để rơi
Cũng không
ra ý tìm tòi
Đành quên phó mặc buông trôi tháng ngày…
Bây giờ
chợt tỉnh mới hay
Ôi thôi bảo vật thoát bay phương nào?
Có khi mắt
lệ quẹn bào (2)
Có
khi bứt rứt xót đau tấc vàng… (3)
Giận
mình rồi lại thở than
Vò
đầu tiếc hận xốn xang đêm trường…
Trần
Văn Dật
(1) Minh Châu : Loại ngọc sáng
(2) Quẹn bào: Hoen áo – Giọt châu thánh thót quẹn bào (Kiều)
(3) Tấc vàng: Tấc lòng vàng, tức là lòng – Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng (Kiều)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét